Thứ sáu, 19/9/2025

Điện thoại (024) 6287 3463

Đường dây nóng (024) 6287 3463

Liên hệ quảng cáo (+84)915.632.345

Thứ sáu, 19/9/2025
Share on Facebook
Copy to Clipboard

NHỮNG HỆ LỤY CỦA CÁC GIẢI PHÁP KÍCH THÍCH KINH TẾ

Các giải pháp kích thích kinh tế, gói kích cầu đã được thực hiện ở Việt Nam từ đầu năm 2009 với mục tiêu ngăn chặn suy giảm kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô, tăng trưởng hợp lý và đảm bảo an sinh xã hội.

Quy mô gói kích thích kinh tế khoảng 145,6 nghìn tỷ đồng, tương đương với trên 8 tỷ USD, gồm:

 1. Hỗ trợ lãi suất vay vốn tín dụng khoảng 17 nghìn tỷ đồng (1 tỷ USD);

 2. Vốn đầu tư phát triển của Nhà nước khoảng 90,8 nghìn tỷ đồng;

 3. Thực hiện chính sách miễn giảm thuế khoảng 28 nghìn tỷ đồng;

 4. Các khoản chi khác nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế và bảo đảm an sinh xã hội khoảng 9,8 nghìn tỷ đồng.

Để đánh giá một cách đầy đủ về gói kích thích kinh tế và tác động của nó cần được xem xét tổng thể trong mối quan hệ:

- Tổng thể các giải pháp của Chính phủ, các biện pháp, chính sách tài chính, tiền tệ cả năm 2009

- Tổng thể các giải pháp và chính sách đã áp dụng từ nhiều năm trước đây, kể cả các chính sách ưu đãi, ưu tiên

- Quan tâm đến độ trễ của các chính sách tài chính, tiền tệ, kể cả độ trễ trong và độ trễ ngoài.

5.Về vốn đầu tư phát triển của Nhà nước

Trong năm 2009, đã bổ sung thêm nguồn vốn của Nhà nước như sau:

(1) Tạm hoãn thu hồi vốn đầu tư XDCB đã ứng trước: Chính phủ đã chỉ đạo tạm hoãn thu hồi các khoản vốn ngân sách nhà nước đã ứng trước kế hoạch năm 2009, trừ các khoản đã được tạm ứng năm 2009 để hoàn thành trong năm 2008, nhằm phục vụ thực hiện mục tiêu kích cầu đầu tư và khắc phục tình trạng tồn đọng vật liệu từ những tháng cuối năm 2008. Tổng số vốn ứng trước được hoãn thu hồi là 3,4 nghìn tỷ đồng (Quyết định số 239/QĐ-TTg ngày 20/02/2009).

(2) Ứng trước vốn ngân sách nhà nước: Thủ tướng Chính phủ đã cho phép ứng trước vốn ngân sách nhà nước để thực hiện một số nhiệm vụ đầu tư như sau:

a) Ứng trước vốn ngân sách 2010, 2011 (Năm chưa đến, chưa có ngân sách) cho các chương trình, dự án:

- Vốn ứng trước đến ngày 30/6/2009: 15.492 tỷ đồng, bao gồm vốn ứng trước cho các dự án cấp bách (giao thông, thủy lợi,...) và thực hiện Chương trình giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 62 huyện nghèo; trong đó: Vốn ứng trước cho các cơ quan Trung ương là 9.467 tỷ đồng, địa phương là 6.025 tỷ đồng.

- Vốn ứng trước theo Quyết định 939/QĐ-TTg ngày 01/7/2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc ứng trước vốn dự toán NSNN năm 2010, 2011 để bổ sung vốn cho các dự án quan trọng, cấp bách, có khả năng hoàn thành trong các năm 2009, 2010: 12.627 tỷ đồng (không kể vốn hỗ trợ xây dựng nhà ở cho hộ nghèo); trong đó: Vốn ứng trước cho các cơ quan Trung ương là 4.504 tỷ đồng, địa phương là 8.123 tỷ đồng. 

b) Ứng trước vốn cho các nhiệm vụ khác:

Chính phủ đã chỉ đạo thực hiện các khoản ứng trước để tăng kinh phí kiên cố hóa kênh mương, đầu tư hạ tầng làng nghề, hạ tầng thuỷ sản 3.000 tỷ đồng; hỗ trợ vốn xây dựng nhà ở cho hộ nghèo 1.000 tỷ đồng; cấp bù chênh lệch lãi suất 2.500 tỷ đồng; bổ sung vốn điều lệ Quỹ Tín dụng Nhân dân Trung ương 500 tỷ; hỗ trợ các doanh nghiệp để duy trì lao động, mở rộng sản xuất và xuất khẩu 1.000 tỷ đồng,... Tổng số vốn ứng trước cho các nhiệm vụ nêu trên  khoảng 9.000 tỷ đồng.

Như vậy, tổng số vốn ứng trước NSNN để thực hiện một số nhiệm vụ đầu tư khoảng 37,1 nghìn tỷ đồng. Nếu trừ số vốn ứng thông thường như các năm trước thì tổng số vốn ứng trước trong gói kích thích kinh tế khoảng 21,1 nghìn tỷ đồng; ước thực hiện trong năm 2009 khoảng 18,2 nghìn tỷ đồng. 

(3) Chuyển nguồn vốn đầu tư kế hoạch năm 2008 sang năm 2009

Trên cơ sở ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho phép kéo dài thời gian giải ngân vốn ngân sách Nhà nước kế hoạch năm 2008 đến hết tháng 6 năm 2009 với số vốn NSNN khoảng 22,5 nghìn tỷ đồng. Ước thực hiện số vốn này trong năm 2009 khoảng 22 nghìn tỷ đồng.

Nguồn vốn trái phiếu Chính phủ kế hoạch năm 2008 được phép chuyển nguồn sang năm 2009 khoảng 7,2 nghìn tỷ đồng. Giải ngân nguồn vốn này đến hết tháng 8 năm 2009 ước đạt 4,5 nghìn tỷ đồng, bằng 63% số vốn được chuyển nguồn.

(4) Phát hành bổ sung trái phiếu Chính phủ

Được phép của Quốc hội tại Nghị quyết số 32/2009/QH12 ngày 19/6/2009, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1297/QĐ-TTg ngày 20/8/2009 về việc giao kế hoạch vốn trái phiếu Chính phủ bổ sung năm 2009 cho các bộ và địa phương với tổng số vốn là 20.000 tỷ đồng, trong đó bố trí cho ngành giao thông vận tải 8.600 tỷ đồng, ngành thủy lợi 4.400 tỷ đồng, các dự án bệnh viện đa khoa tuyến huyện và các bệnh viện tuyến tỉnh theo Nghị quyết số 18/2008/QH12 của Quốc hội 2.000 tỷ đồng, các dự án thuộc Chương trình kiên cố hóa trường, lớp học và nhà công vụ cho giáo viên 1.500 tỷ đồng, các dự án ký túc xá sinh viên 3.500 tỷ đồng.

Căn cứ các Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã thông báo kế hoạch vốn và danh mục dự án sử dụng vốn trái phiếu Chính phủ bổ sung năm 2009 cho các bộ, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Ước thực hiện đến hết năm 2009 sẽ giải ngân được khoảng 10 nghìn tỷ đồng.

1. Thực hiện chính sách miễn, giảm, giãn thuế

Để thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, xuất khẩu và kích cầu tiêu dùng, Chính phủ đã thực hiện gói kích thích kinh tế thông qua các biện pháp giảm, giãn thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN), thuế giá trị gia tăng (GTGT),… nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp duy trì và phát triển sản xuất, kích thích đầu tư; miễn thuế thu nhập cá nhân (TNCN) đối với một số đối tượng trong 6 tháng đầu năm 2009; giảm thuế nhập khẩu đối với một số nhóm hàng là nguyên liệu đầu vào của sản xuất; giảm phí trước bạ,…

Tổng số thu NSNN được miễn, giảm, giãn theo các chính sách đã ban hành khoảng 20.000 tỷ đồng, trong đó: giảm, giãn thuế TNDN khoảng 9.900 tỷ đồng; giảm thuế GTGT khoảng 4.470 tỷ đồng; miễn thuế TNCN khoảng 4.507 tỷ đồng; giảm thu lệ phí trước bạ khoảng 1.140 tỷ đồng. Đồng thời, đã tiếp tục rà soát giảm khoảng 140 tỷ đồng các khoản phí và lệ phí khác. Bên cạnh đó, thực hiện giảm, giãn thời gian nộp thuế GTGT đối với hàng hóa xuất nhập khẩu năm 2009 khoảng 7.000 tỷ đồng, trong đó: giảm thu do giảm thuế 50% tại khâu nhập khẩu ước khoảng 5.000 tỷ đồng; giãn nộp thuế 180 ngày đối với máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải chuyên dùng loại trong nước chưa sản xuất được ước khoảng 2.000 tỷ đồng. Tuy nhiên, do thuế GTGT có tính chất liên hoàn (số thuế GTGT hàng nhập khẩu là thuế GTGT đầu vào của khâu nội địa, được kê khai, khấu trừ vào số thuế GTGT đầu ra của hàng hóa tiêu thụ trong nước khi xác định số thuế phải nộp) nên việc giảm, giãn thuế này ảnh hưởng không lớn đến số thu NSNN.

2. Các khoản chi khác nhằm góp phần ngăn chặn suy giảm kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội

Chính phủ đã cho phép tăng mua dự trữ quốc gia về gạo và xăng dầu, dự kiến tổng nguồn vốn cho nhiệm vụ này khoảng 2.800 tỷ đồng (trong đó mua gạo là 1.300 tỷ đồng; xăng dầu là 1.500 tỷ đồng). Chính phủ cũng cho phép ứng chi để thực hiện các nhiệm vụ chi thường xuyên nhằm đảm bảo an sinh xã hội phát sinh ngoài dự toán như: hỗ trợ kinh phí cho hộ nghèo ăn Tết Kỷ Sửu 2009, hỗ trợ doanh nghiệp khó khăn do suy giảm kinh tế (trả lương công nhân, đóng bảo hiểm xã hội,...); hỗ trợ thay thế xe công nông, xe cơ giới 3 bánh; kinh phí khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh,... khoảng 7.000 tỷ đồng.

Tóm lại, qua quá trình thực hiện và cập nhật tình hình triển khai như báo cáo ở trên, tổng hợp lại các nguồn của gói kích thích kinh tế và bảo đảm an sinh xã hội như sau:

Đơn vị: Tỷ đồng

TT

Danh mục

Tổng số tiền gói kích thích kinh tế

Thực hiện năm 2009

Dự kiến ban đầu

Số thực tế (1)

 

Tổng số

145.600

122.000

100.600

1.              

Hỗ trợ lãi suất vay vốn tín dụng

17.000

18.000 (2)

10.000

2.              

Vốn đầu tư phát triển của Nhà nước

90.800

74.200

60.800

 

- Tạm hoãn thu hồi vốn đầu tư XDCB ứng trước năm 2009

 

3.400

3.400

 

- Ứng trước ngân sách để thực hiện một số nhiệm vụ đầu tư quan trọng, cấp bách

 

21.100

18.200

 

- Chuyển nguồn vốn đầu tư kế hoạch năm 2008 sang năm 2009

 

29.700

29.200

 

   + Vốn đầu tư thuộc NSNN

 

22.500

22.000

 

   + Vốn trái phiếu Chính phủ

 

7.200

7.200

 

- Phát hành thêm trái phiếu Chính phủ

 

20.000

10.000

3.              

Thực hiện chính sách miễn, giảm, giãn thuế

28.000

20.000

20.000

 

- Giảm, giãn thuế thu nhập doanh nghiệp

 

9.900

9.900

 

- Giảm thuế giá trị gia tăng

 

4.470

4.470

 

- Miễn thuế thu nhập cá nhân

 

4.507

4.507

 

- Giảm thu lệ phí trước bạ

 

1.140

1.140

4.              

Các khoản chi khác nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội

9.800

9.800

9.800

Ghi chú:

(1)     Sau khi loại trừ các khoản phát sinh như các năm trước

(2)     Do điều chỉnh tỷ giá

Như vậy, trên cơ sở thông tin cập nhật đến nay, quy mô gói kích thích kinh tế và bảo đảm an sinh xã hội khoảng 122 nghìn tỷ đồng, tương đương khoảng 6,9 tỷ USD. Ước thực hiện trong năm 2009 đã sử dụng hết khoảng 100,6 nghìn tỷ đồng, tương đương khoảng 5,7 tỷ USD. Số còn lại sẽ được sử dụng trong năm 2010 – 2011.

Một số kết quả

 Qua thực tế tình hình kinh tế - xã hội năm 2009 (trong bối cảnh kinh tế thế giới vẫn còn nhiều khó khăn) có thể nhận thấy việc thực hiện gói kích thích kinh tế và bảo đảm an sinh xã hội đã mang lại nhiều kết quả tích cực. Thể hiện cụ thể trên các mặt sau đây:

2.1. Nền kinh tế nước ta chịu tác động trực tiếp của khủng hoảng thế giới nhưng chỉ bị suy giảm, không rơi vào tình trạng suy thoái như các nước khác. Chúng ta đã thực hiện được mục tiêu ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì được tốc độ tăng trưởng hợp lý và bền vững. Biểu hiện cụ thể là GDP trong Quý I có tốc độ tăng trưởng 3,14%, sang Quý II tăng 4,46%, Quý III tăng 5,76% và Quý IV tăng 6,8%, cả năm tăng 5,23%, vượt mục tiêu Quốc hội đề ra; trong đó: khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 1,9%, khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 5,4%; khu vực dịch vụ tăng 6,5%.

2.2. Cơ chế hỗ trợ lãi suất được sự đồng tình, ủng hộ, phối hợp triển khai của cả hệ thống chính trị và cộng đồng doanh nghiệp, hộ sản xuất; là giải pháp kích cầu phù hợp và được triển khai kịp thời, nên đã tạo lòng tin và động lực cho các doanh nghiệp, hộ sản xuất thực hiện các giải pháp ngăn chặn suy giảm kinh tế của Chính phủ - Cùng với chính sách tiền tệ nới lỏng một cách thận trọng, việc tổ chức thực hiện tốt cơ chế hỗ trợ lãi suất đã tạo điều kiện cho doanh nghiệp và hộ sản xuất tiếp cận vốn vay với lãi suất thấp (4-6%/năm sau khi được hỗ trợ lãi suất) để sản xuất, kinh doanh.

 Theo báo cáo khảo sát tại các địa phương, việc thực hiện cơ chế hỗ trợ lãi suất đã đạt được mục tiêu là tạo điều kiện cho doanh nghiệp, hộ sản xuất giảm chi phí vay vốn, hạ giá thành sản phẩm, duy trì và mở rộng sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm cho người lao động, trong đó: (i) Kết quả khảo sát 180 doanh nghiệp của Cục Thống kê Đà Nẵng, có 63,3% doanh nghiệp được vay vốn ngắn hạn hỗ trợ lãi suất vay vốn, 50,6% doanh nghiệp sử dụng vốn vay để duy trì sản xuất kinh doanh, 36,3% doanh nghiệp dùng vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh, 9,7% doanh nghiệp dùng vốn vay để giải quyết tiền lương, 95% doanh nghiệp giảm giá thành sản phẩm, 33,3% doanh nghiệp giảm giá bán dưới 10%, 12,5% doanh nghiệp giảm giá bán trên 10%, 83,9% doanh nghiệp đã cải thiện được khả năng cạnh tranh, 90% doanh nghiệp giữ ổn định và tăng sử dụng lao động, 90% doanh nghiệp trả đủ lương cho người lao động; (ii) Theo kết quả khảo sát ở một số địa phương, NHTM cho thấy cơ chế hỗ trợ lãi suất đã có tác động giảm chi phí vay vốn của doanh nghiệp 36,6% ở TP Hồ Chí Minh, 30% ở Thừa Thiên Huế, 36,64% ở 72 doanh nghiệp vay vốn ở NHTM cổ phần Á Châu, giảm 35% đối với các doanh nghiệp chế biến bột cá, vận tải, sản xuất nhựa, cơ khí, chế biến cà phê vay vốn tại Ngân hàng Công thương Việt Nam; hạ giá thành sản phẩm khoảng 4% ở thành phố Hồ Chí Minh và Hưng Yên.

- Theo báo cáo của Bộ Công thương, việc ban hành Quyết định 497/QĐ-TTg đã giúp nhiều doanh nghiệp trong nước duy trì sản xuất, đẩy mạnh tiêu thụ hàng hóa, cụ thể là: Trong 7 tháng đầu năm 2009, Tổng Công ty Máy động lực và máy nông nghiệp Việt Nam có sản lượng sản xuất và tiêu thụ máy kéo, xe vận chuyển tăng 84,77%, máy phun thuốc trừ sâu tăng 342,23%, máy bơm nước các loại tăng 159%, máy cắt lúa, gặt đập liên hợp tăng 50,74%.

2.3. Trong từng ngành, lĩnh vực đều có những chuyển biến tích cực:

Sản xuất công nghiệp phục hồi khá nhanh nhờ các chính sách hỗ trợ sản xuất như: hỗ trợ lãi suất tín dụng, miễn, giảm thuế, khuyến khích xuất khẩu. Sau khi giảm sâu trong tháng 1 (-4,4%), ngành công nghiệp liên tục có tốc độ tăng trong các tháng tiếp theo và đến tháng 9 đã tăng 13,8% so với cùng kỳ năm trước, gần bằng mức tăng của các năm trước (tăng khoảng 15-16%). Đặc biệt, ngành xây dựng, từ mức tăng trưởng âm 0,4% về giá trị tăng thêm trong năm 2008 đã tăng 6,9% trong Quý I, tăng 9,8% trong Quý II, tăng 11,0% trong Quý III và dự kiến cả năm có thể đạt tốc độ tăng trưởng khoảng 11,3% nhờ các biện pháp hỗ trợ sản xuất, kích cầu đầu tư, bao gồm việc bổ sung thêm vốn đầu tư của Nhà nước (ứng trước vốn NSNN, tăng thêm vốn trái phiếu Chính phủ), khuyến khích huy động các nguồn vốn khác đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội như các dự án BOT, BT, xây dựng nhà ở xã hội, nhà ở cho người có thu nhập thấp, nhà ở cho công nhân ở các khu kinh tế, khu công nghiệp tập trung,...

Ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản phát triển ổn định. Giá trị sản xuất toàn ngành nông, lâm, ngư nghiệp 9 tháng đầu năm tăng 2,6% so với cùng kỳ năm tr­ước. Sản lượng lương thực vụ đông xuân vượt mức kỷ lục của năm trước (tăng 0,3%). Trà lúa mùa hiện đang phát triển tốt và hứa hẹn tiếp một vụ mùa bội thu. Chăn nuôi gia súc, gia cầm tiếp tục phát triển; cả nước không còn ổ dịch gia cầm, dịch bệnh gia súc được khống chế. Khai thác thủy sản đạt kết quả tốt do thời tiết thuận lợi và có chính sách hỗ trợ của Nhà nước. Sản lượng khai thác thủy sản 9 tháng đầu năm tăng 6,8%. Sản lượng nuôi trồng thủy sản 9 tháng đầu năm tăng 1,8% so với cùng kỳ năm 2008.

Khu vực dịch vụ nhìn chung vẫn duy trì mức tăng trưởng khá cao, giá trị tăng thêm đạt tốc độ tăng trưởng 5,1% trong Quý I, 5,7% trong Quý II và 6,8% trong Quý III; dự báo cả năm đạt khoảng 6,5%. Nhờ thực hiện tốt các chính sách kích cầu đầu tư và tiêu dùng, hoạt động thương mại, dịch vụ nội địa đạt nhiều kết quả. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 9 tháng đầu năm 2009 tăng 18,6% so với cùng kỳ năm 2008. Các lĩnh vực thông tin, viễn thông tiếp tục phát triển tốt.

2.4. Kinh tế vĩ mô cơ bản được ổn định; các cân đối thu chi ngân sách Nhà nước, tiền tệ, cán cân thanh toán quốc tế,... được bảo đảm, lạm phát được kiềm chế ở mức thấp. Chỉ số giá tiêu dùng tháng 9 năm 2009 so với tháng 12 năm 2008 chỉ tăng 4,11%, cùng với việc hỗ trợ lãi suất 4% năm vừa tạo thuận lợi giúp cho doanh nghiệp giảm bớt khó khăn, phục hồi sản xuất, vừa hỗ trợ cho việc phát triển ổn định và an toàn của hệ thống các tổ chức tín dụng. Thị trường chứng khoán đang có sự phục hồi với giao dịch sôi động hơn. Chỉ số giá chứng khoán (VN-Index) từ mức 235 điểm vào Quý I đã tăng dần lên và hiện đang dao động trong khoảng 580 điểm.

2.5. Việc bổ sung thêm các nguồn vốn đầu tư từ NSNN, trái phiếu Chính phủ cùng với các chính sách hỗ trợ lãi suất, kích cầu đầu tư của Nhà nước đã khuyến khích các thành phần kinh tế bỏ vốn đầu tư, kinh doanh, nhờ đó huy động được nhiều nguồn vốn cho phát triển nền kinh tế trong điều kiện rất khó khăn; góp phần quan trọng để ngăn chặn suy giảm kinh tế; tạo thêm việc làm, thu nhập và chuẩn bị điều kiện để phục hồi, lấy lại đà tăng trưởng kinh tế trong những năm sau. Dự kiến tổng vốn đầu tư toàn xã hội năm 2009 sẽ đạt trên 42% GDP, vượt kế hoạch đề ra là 39,5%.

2.6. Việc thực hiện các chính sách miễn, giảm, giãn thuế đã giảm bớt một phần khó khăn cho doanh nghiệp và người dân, góp phần phục hồi và từng bước đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh và xuất khẩu, kích cầu đầu tư và tiêu dùng. Việc giãn thời gian thi hành Luật thuế thu nhập cá nhân đã góp phần kích thích tiêu dùng, nhất là các dịch vụ cao cấp, du lịch nội địa, vui chơi, giải trí đối với những người có thu nhập cao. Trong 9 tháng đầu năm, tổng doanh thu về du lịch tăng trên 18%, chủ yếu do tăng du lịch trong nước.

2.7. Việc thực hiện các chính sách an sinh xã hội đã góp phần bảo đảm đời sống nhân dân, nhất là đối với người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số, các vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa,... trong điều kiện rất khó khăn của nền kinh tế do tác động của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới. Gói kích thích kinh tế và bảo đảm an sinh xã hội tiếp tục hướng vào xóa đói giảm nghèo; hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững tại 62 huyện nghèo; hỗ trợ người dân khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh,... Cùng với quá trình phục hồi nền kinh tế, nhất là trong công nghiệp và xây dựng, nhu cầu tuyển dụng lao động tăng nhanh, tạo điều kiện thu hút số lao động dôi dư trong suy giảm kinh tế trong thời gian qua. Tỷ lệ hộ nghèo đến cuối năm ước còn khoảng 11%, vượt kế hoạch đề ra.

3. Tồn tại và hệ lụy

Bên cạnh mặt tích cực, cơ chế hỗ trợ lãi suất có những khó khăn, vướng mắc và tác động không thuận lợi như sau:

3.1- Dư nợ cho vay hỗ trợ lãi suất theo Quyết định số 497/QĐ-TTg đạt thấp do có một số vướng mắc:

 - Có sự trùng lắp về đối tượng hỗ trợ lãi suất với quyết định số 131/QĐ-TTg và Quyết định số 443/QĐ-TTg;

- Điều kiện, thủ tục cho vay chặt chẽ hơn so với cho vay theo cơ chế thông thường như chỉ cho vay để mua hàng hóa sản xuất trong nước, thủ tục vay phải có xác nhận của ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn về đối tượng và mục đích sử dụng vốn vay, mức tiền vay tối đa mua vật tư nông nghiệp 7 triệu đồng/ha là quá thấp,…

3.2- Cơ chế hỗ trợ lãi suất được ban hành gấp trong bối cảnh kinh tế suy giảm, nên chưa được nghiên cứu thật kỹ lưỡng,  có nhiều quyết định của Thủ tướng Chính phủ về hỗ trợ lãi suất do nhiều cơ quan khác nhau đề xuất, điều này dẫn đến tình trạng chưa thật nhất quán về đối tượng, mức hỗ trợ lãi suất cho vay trong một số chính sách và phần nào tạo ra một số khó khăn, vướng mắc trong hướng dẫn, tổ chức triển khai và kiểm soát được tác động của chính sách đối với nền kinh tế;

3.3- Việc triển khai đồng thời nhiều cơ chế hỗ trợ lãi suất cùng với việc thực thi chính sách tài khóa mở rộng và chính sách tiền tệ nới lỏng làm cho tổng phương tiện thanh toán và tín dụng tăng ở mức cao gây sức ép tăng lãi suất thị trường và lạm phát trong thời gian tới. Mức tăng tín dung năm 2009 đã là 37,85%.

3.4- Do lãi suất cho vay VND sau khi được hỗ trợ khá thấp, tương đương lãi suất cho vay bằng USD, nhưng do lo ngại rủi ro tỷ giá, các doanh nghiệp nhập khẩu chuyển sang vay VND để mua ngoại tệ, gây sức ép tăng tỷ giá và căng thẳng thanh khoản trên thị trường ngoại hối; doanh nghiệp có vốn tự có gửi vào NHTM để hưởng lãi suất cao (từ 7-10%/năm), nhưng vẫn vay vốn VND để hưởng hỗ trợ lãi suất 4%/năm, hoặc có hiện tượng vay vốn VND chuyển sang tiền gửi để hưởng chênh lệch lãi suất; doanh nghiệp lập phương án sản xuất, kinh doanh, dự án đầu tư với thời hạn trả nợ kéo dài hơn so với chu kỳ sản xuất, kinh doanh, thời hạn hoàn vốn để được hưởng nhiều hỗ trợ lãi suất.

3.5- Phát sinh tình trạng không công bằng giữa các doanh nghiệp được vay và doanh nghiệp không được vay vốn hỗ trợ lãi suất. Mặt khác với mức hỗ trợ lãi suất tiền vay 4%/năm là khá lớn, đối tượng thụ hưởng thuộc nhiều lĩnh vực, ngành kinh tế, nếu kéo dài sẽ phát sinh tâm lý ỷ lại vào sự hỗ trợ của nhà nước, giảm khả năng của doanh nghiệp.

3.6- Trị giá các gói kích thích bằng gần 9% GDP được đưa vào nền kinh tế trong một thời gian không quá dài dễ tạo ra lạm phát, nhất là khi những đồng vốn này không được sử dụng đúng chỗ, không được kiểm soát chặt chẽ và không hiệu quả. CPI cả năm 2009 tăng 7.00%,

Vốn kích cầu lên tới 8 tỷ USD, nếu được sử dụng hiệu quả sẽ kích thích sản xuất - kinh doanh trong nước, tạo nguồn hàng phong phú, tạo việc làm, nâng cao thu nhập người dân… Nhưng trong điều kiện NSNN hạn hẹp, năm 2009 thâm hụt ở mức 6,9% GDP, khi lượng tiền cung ứng lớn, nếu chi tiêu Chính phủ kém hiệu quả thì không những không thúc đẩy sản xuất, mà còn làm tăng nguy cơ xảy ra lạm phát, kéo theo nhiều hậu quả khác như tăng bội chi ngân sách, ảnh hưởng xấu đến đời sống xã hội...

Chính phủ rất quan tâm đến tính an toàn và hiệu quả cung cấp gói kích cầu , nhưng vẫn chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu về 2 mặt là tính chặt chẽ, nghiêm khắc của các điều kiện và  mức độ công khai về thông tin. Điều này có thể khiến các giải pháp kích thích kinh tế bị chệch mục đích, bị lạm dụng, lợi dụng. Thực tế thực hiện “gói” hỗ trợ lãi suất vay tín dụng 17 nghìn tỷ đồng đã bộc lộ những vấn đề có những biện pháp xử lý. Tổng số tín dụng được hỗ trợ bù lãi suất của gói kích cầu 17.000 tỷ đồng là 450.000 tỷ đồng nếu tính theo 12 tháng, thể hiện một tỷ lệ tăng dư nợ rất cao. Khi ngân hàng giải ngân thì số tiền cho vay được chuyển đến tài khoản của DN, nhưng DN không cần ngay một lúc toàn bộ số tiền vay ấy. Có rất nhiều khả năng để doanh nghiệp sử dụng số vốn vay được:

      - Chuyên qua tài khoản “tiết kiệm có thời hạn” hoặc tiền gửi qua đêm để được hưởng lãi suất huy động, khoảng từ 7% đến 10%

       - Dùng để trả những khoản nợ cũ đã vay với lãi suất cao, có khoản nợ chịu lãi suất cao tới trên 20%. Thực chất là đảo nợ; Doanh nghiệp giảm tiền trả lãi , ngân hàng giảm được nợ xấu về mặt hình thức

       - Có thể đem đầu tư tài chính ngắn hạn, như đầu tư trên thị trường chứng khoán (TTCK), hay thị trường bất động sản (BĐS);

       - Có thể dùng vào những dự án khác hoặc cho doanh nghiệp không đủ điều kiện được hỗ trợ lãi suất vay lại. Nói chung là dùng vào những việc ngoài những mục đích của chính sách hỗ trợ lãi suất.

        Cách sử dụng số vốn vay như trên sẽ có những tác động xấu đối với thị trường tài chính và nền kinh tế. Những dòng tiền vừa ra khỏi ngân hàng đã sớm quay trở lại ngân hàng để lấy lãi hoặc thu lợi ích không những đã gây thiệt hại cho NSNN mà còn làm lệch hướng chính sách phát triển sản xuất kinh doanh, giải quyết việc làm . Trong trường hợp đảo nợ thì về mạt hình thức, tạm thời làm giảm tổng dư nợ và giảm một phần nợ xấu hay khó đòi trong hệ thống ngân hàng, nhưng không phải là sự giảm thực chất và trong tương lai lại có khả năng phát sinh thêm các khoản nợ xấu hơn. Nếu số lượng tiền sử dụng không đúng mục đích lên đến hàng trăm nghìn tỷ thì sẽ gây ra nguy cơ rất bất lợi cho hệ thống tài chính, ngân hàng, tiền tệ.

            3.7- Lạm phát có thể quay trở lại. Rủi ro về lạm phát ở nước ta đang rình rập, với việc Chính phủ đẩy mạnh các giải pháp kích cầu và liên tục tăng giá các mặt hàng nhạy cảm trong những tháng đầu năm 2010.Do chính sách có độ trễ lớn nên lượng tiền tung ra cho nền kinh tế ngay trong năm 2010 sẽ lớn hơn. Chủ trương kìm giữ tốc độ tăng trưởng tin dung ở mức 25%, CPI ở mức 7% là  vô cùng khó khăn và không thực tế . Việc tăng quá nhanh và quá mạnh tín dụng cũng là dấu hiệu cảnh báo nguy cơ lạm phát. Kinh nghiệm cho thấy, nếu như tăng trưởng tín dụng tăng đột biến, thì chỉ sau 2-3 tháng nó sẽ tác động tới việc tăng giá.

3.8 - Bội chi ngân sách tăng, năm 2009 là 6,9%/GDP, năm 2010 kế hoạch là 6,2%. Đó là chưa kể tới nhiều khoản chi từ các nguồn ngoài Ngân sách. Ngay đầu năm 2010 các mức lương tối thiểu của doanh nghiệp ở 4 khu vực đã tăng, Lương tối thiểu của Khu vực hành chính sự nghiệp cũng sẽ được điều chỉnh tăng, giá điện, xăng dầu, than đã và sẽ tăng  gây những ảnh hưởng đáng kể đến  giá cả. Mặt khác, những  nguyên nhân cơ bản gây ra lạm phát cao tại Việt Nam trong năm 2008 vẫn còn. Đó chính là những trục trặc mang tính cơ cấu, trong đó sự thiếu kỷ luật tài chính trong đầu tư công và trong hoạt động của các DNNN và tập đoàn lớn là đáng kể nhất. Vì vậy, kích cầu đầu tư thông qua việc nới lỏng tín dụng  nếu thiếu sự thẩm định, thiếu  giám sát và thiếu đạo đức thì kết quả rất có thể là nền kinh tế vẫn tiếp tục đình trệ, trong khi lạm phát bị kích hoạt trở lại./.

 

 

PGS, TS. Đặng Văn Thanh

Chủ tịch Hội Kế toán và Kiểm toán Việt Nam

Lượt xem: 0

CHỦ ĐỘNG SỬ DỤNG VÀ ỨNG PHÓ VỚI PHÒNG VỆ THƯƠNG MẠI

1. Xu hướng sử dụng và hệ lụy của sử dụng phòng vệ thương mại Cùng với xu hướng tự do hóa thương mại, trong những năm gần đây, xu thế bảo hộ thông qua sử dụng các biện pháp phòng vệ thương mại cũng đang diễn biến theo nhiều cách thức, mức độ khác nhau, kể cả tại một số nền kinh tế lớn. Về nguyên tắc, để bảo hộ mậu dịch, các nước có thể dùng phối hợp các công cụ bảo hộ thuế quan và phi thuế quan. Chúng có thể có nhiều hình thức, bao gồm: Thuế và các hàng rào phi thuế quan. Nhưng xu hướng hiện nay là ngày càng giảm các hàng rào thuế quan và gia tăng các công cụ phi thuế quan, bao gồm: cấm nhập khẩu; hạn ngạch nhập khẩu; giấy phép nhập khẩu; giấy phép xuất khẩu, hạn ngạch nhập khẩu, trợ cấp, tự nguyện hạn chế xuất khẩu, yêu cầu nội địa hóa, lệnh cấm vận, giá nhập khẩu tối thiểu, giá nhập khẩu tối đa, giá xuất khẩu tối thiểu và giá hành chính; các yêu cầu thanh toán trước; tiền gửi nhập khẩu trước; yêu cầu giới hạn tiền mặt; trả trước thuế hải quan; tỷ giá hối đoái đa dạng; quản lý ngoại hối; thuế nội địa đối với nhập khẩu (thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế giá trị gia tăng); biện pháp về hành chính kĩ thuật (bao gồm hình thức hàng đổi hàng, đặt cọc, thủ tục hải quan, mua sắm chính phủ, quy tắc xuất xứ, chất lượng, an toàn hoặc kích thước, kí hiệu, thử nghiệm và các phương pháp thử nghiệm, đóng gói, đóng dấu, và các yêu cầu dán nhãn cho một sản phẩm)…   Các biện pháp phòng vệ thương mại là tên gọi chung của ba nhóm biện pháp: chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ. Các biện pháp này được ghi nhận cả trong khuôn khổ Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và trong các hiệp định thương mại tự do song phương và khu vực được các quốc gia trên thế giới ký kết. Theo đó, các quốc gia có quyền tăng thuế nhập khẩu hoặc áp dụng một số biện pháp hạn chế nhập khẩu phù hợp, nếu xác định rằng việc gia tăng hàng hóa nhập khẩu là nguyên nhân gây ra thiệt hại hoặc đe dọa gây ra thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước. Để đi đến quyết định áp dụng một biện pháp phòng vệ thương mại, các hiệp định của WTO quy định nước nhập khẩu phải tiến hành một quy trình điều tra, phân tích trên cơ sở thu thập thông tin từ các bên liên quan, trong đó có thông tin từ các doanh nghiệp sản xuất trong nước, doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu của nước ngoài và doanh nghiệp nhập khẩu. Quy trình điều tra này có thể kéo dài từ 12 đến 18 tháng. Nếu các phân tích cho thấy các điều kiện áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại được đáp ứng, nước nhập khẩu mới có thể đưa ra quyết định áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại. Tại Việt Nam, quy trình điều tra này được cụ thể hóa trong Luật Quản lý ngoại thương, Nghị định số 10/2018/NĐ-CP và các văn bản pháp lý liên quan. Mặt khác, để bảo đảm hiệu quả của các biện pháp phòng vệ thương mại, các quốc gia áp dụng biện pháp cũng tích cực giám sát, theo dõi sự biến động của luồng hàng hóa nhập khẩu để phát hiện các hành vi gian lận nhằm lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại. Trong trường hợp phát hiện hành vi gian lận, nước áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại có thể điều tra lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại để mở rộng áp dụng phạm vi áp dụng cho hàng hóa tương tự của quốc gia mà tại đó hành vi gian lận xảy ra, gây ảnh hưởng liên đới tới các doanh nghiệp xuất khẩu chân chính. Nghiên cứu mới đây của WTO cho thấy, thời gian qua, các biện pháp hạn chế/bảo hộ thương mại được các thành viên WTO áp dụng đã gia tăng một cách kỷ lục. Kể từ khủng hoảng tài chính năm 2008, thế giới đã có thêm 4.000 biện pháp bảo hộ thương mại mới được áp dụng gồm: Biện pháp phòng vệ thương mại, tăng thuế, rào cản địa phương, trợ cấp phí xuất khẩu, và các phân biệt đối xử. Năm 2016, các nước thành viên WTO đã điều tra 345 vụ phòng vệ thương mại, tăng 24,5% so với năm 2015, với 300 vụ chống bán phá giá, 34 vụ chống trợ cấp và 11 vụ việc điều tra tự vệ. Riêng trong giai đoạn từ tháng 10/2018 đến tháng 10/2019, tổng giá trị thương mại bị ảnh hưởng do việc áp dụng các biện pháp này dự tính khoảng 747 tỷ USD. Trong số hơn 2.800 biện pháp hạn chế thương mại ghi nhận qua các thời kỳ kiểm tra chính sách thương mại từ tháng 10/2008 đến nay, mới chỉ có 25% đã được bãi bỏ. Tại Mỹ, để bảo vệ lợi ích của mình, nước này đang áp dụng 80% trong số 31.000 biện pháp “bảo hộ mậu dịch” trên thế giới hiện nay. Việc bảo hộ mậu dịch có tác động hai mặt: Một mặt, bảo hộ đem lại lợi ích nhất thời cho các nhà sản xuất trong nước và khuyến khích phát triển một số ngành nghề; hạn chế tiêu dùng; bảo đảm an toàn sức khỏe con người, động thực vật, môi trường, cân bằng cán cân thanh toán và đảm bảo an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, ổn định nguồn thu ngân sách nhà nước; tăng việc làm mới và phân phối lại thu nhập… Mặt khác, bảo hộ làm cho các nhà sản xuất trong nước có cơ hội đầu cơ trên giá bán hàng (hay cung cấp dịch vụ) ở mức có lợi nhất cho họ; giảm động lực áp dụng các biện pháp nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm, gây thiệt hại cho người tiêu dùng, ảnh hưởng đến sự phát triển và hiện đại hóa nền kinh tế xét theo mục tiêu dài hạn. Các hàng rào phi thuế quan đôi khi cũng làm nhiễu tín hiệu của thị trường mà người sản xuất dựa vào đó để ra quyết định. Tín hiệu này chính là giá thị trường. Khi bị làm sai lệch, nó sẽ phản ánh không trung thực lợi thế cạnh tranh thật sự chỉ dẫn sai việc phân bổ nguồn lực trong nội bộ nền kinh tế. Do đó, khả năng xây dựng kế hoạch đầu tư, sản xuất, kinh doanh hiệu quả trong trung và dài hạn của người sản xuất bị hạn chế. Không những thế, các hàng rào phi thuế quan thường đòi hỏi chi phí của Nhà nước để duy trì hệ thống điều hành kiểm soát thương mại phi thuế quan. Việc sử dụng các hàng rào phi thuế quan nhằm hạn chế nhập khẩu, bảo hộ sản xuất trong nước hầu như không đem lại nguồn thu tài chính trực tiếp nào cho Nhà nước, mà thường chỉ làm lợi cho một số doanh nghiệp hoặc ngành nhất định được bảo hộ hoặc được hưởng ưu đãi đặc quyền như được phân bổ hạn ngạch, được chỉ định làm đầu mối nhập khẩu. Điều này còn dẫn đến sự bất bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong nội bộ nền kinh tế. 2. Thực tế ứng phó và sử dụng các công cụ phòng vệ thương mại ở Việt Nam Việt Nam hiện đã có quan hệ thương mại tự do với 60 đối tác thương mại thông qua việc ký kết 16 Hiệp định thương mại tự do (FTA), trong đó có các FTA thế hệ mới như Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định FTA với Liên minh châu Âu (EVFTA). Đối với hàng hóa nội địa, mức cắt giảm thuế quan hầu hết về 0% đã đưa Việt Nam trở thành một trong những quốc gia có độ mở cửa cao nhất trên thế giới. Tuy nhiên, quá trình mở cửa, dù theo lộ trình, với các đối tác thương mại lớn có thể làm cho một số ngành sản xuất trong nước không thích ứng kịp với diễn biến cạnh tranh phức tạp, thậm chí không lành mạnh (như bán phá giá, nhận trợ cấp) của hàng hóa nhập khẩu từ nước ngoài. Đồng thời, hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam cũng bị các nước áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại với tần suất cao. Các vụ kiện này không chỉ diễn ra với hàng hóa có thế mạnh xuất khẩu mà với ngay cả các mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu thấp. Việc này có thể gây ảnh hưởng tiêu cực trực tiếp tới các ngành sản xuất, xuất khẩu và gián tiếp đặt ra các gánh nặng về kinh tế, xã hội. Cùng với sự tăng trưởng của kim ngạch xuất khẩu trong thời gian qua, hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam cũng ngày càng phải đối mặt nhiều hơn với các vụ việc điều tra, áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại của nước ngoài. Theo VCCI, tính đến tháng 10/2015, đã có hơn 94 vụ kiện chống bán phá giá, kiện chống trợ cấp, kiện tự vệ đối với hàng hóa và doanh nghiệp Việt Nam ở thị trường nước ngoài. Theo thống kê của Bộ Công Thương, tính hết năm 2018, đã có 144 vụ phòng vệ thương mại do 18 quốc gia và vùng lãnh thổ khởi xướng điều tra, áp dụng đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam. Đặc biệt, số liệu 3 năm gần đây cho thấy số lượng điều tra phòng vệ thương mại đối với hàng hàng hoá xuất khẩu Việt Nam đang tăng nhanh, cụ thể: Theo Bộ Công Thương, tính đến hết tháng 12/2021, hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam là đối tượng của 209 vụ việc điều tra liên quan đến phòng vệ thương mại. Riêng trong năm 2021 có 08 vụ việc mới do nước ngoài khởi xướng, bên cạnh nhiều vụ việc cũ đang tiếp tục được điều tra và các vụ việc rà soát hằng năm, rà soát cuối kỳ.  Các con số tương tự đến hết năm 2022 là 226 vụ việc điều tra và 17 vụ việc mới; đến hết năm 2023 là 242 vụ và 15 vụ việc mới. Tính đến tháng 6/2024 hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam đối mặt với 252 vụ việc điều tra phòng vệ thương mại từ 24 thị trường và vùng lãnh thổ. Hoa Kỳ là một trong những quốc gia thường xuyên sử dụng các biện pháp phòng vệ thương mại. Theo thống kê của WTO, tính đến hết tháng 12/2022, Hoa Kỳ đã điều tra 53 vụ việc phòng vệ thương mại đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam, chiếm khoảng 25% tổng số vụ việc nước ngoài điều tra với hàng xuất khẩu của Việt Nam. Trong năm 2022, Hoa Kỳ đã khởi xướng điều tra mới 12 vụ việc, trong đó chủ yếu là điều tra chống lẩn tránh thuế phòng vệ thương mại (11 vụ). Các mặt hàng bị điều tra gồm các sản phẩm thép, pin năng lượng mặt trời, tủ gỗ, ghim dập, thép dây... Ngoài ra, Hoa Kỳ cũng tiến hành rà soát một số biện pháp phòng vệ thương mại đã áp dụng trước đó, như rà soát hành chính thuế chống trợ cấp với lốp xe, rà soát hành chính thuế chống bán phá giá với cá tra, cá basa. Nguyên nhân của việc gia tăng số lượng các vụ điều tra phòng vệ thương mại đối với hàng hoá xuất khẩu từ Việt Nam gắn với hệ quả của quá trình đẩy nhanh tự do hoá thương mại của Việt Nam với thế giới và cả xu thế bảo hộ thương mại khi xung đột thương mại Hoa Kỳ - Trung Quốc bùng nổ. Bởi lẽ, để bảo đảm hiệu quả của các biện pháp phòng vệ thương mại, các quốc gia áp dụng biện pháp cũng tích cực giám sát, theo dõi sự biến động của luồng hàng hóa nhập khẩu để phát hiện các hành vi lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại. Trong trường hợp phát hiện hành vi lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại, nước áp dụng biện pháp có xu hướng tiến hành các cuộc điều tra lẩn tránh để mở rộng phạm vi áp dụng đến hàng hóa tương tự của quốc gia mà tại đó hành vi lẩn tránh xảy ra, gây ảnh hưởng liên đới tới các doanh nghiệp xuất khẩu chân chính. Các vụ việc mà Hoa Kỳ nhắm vào hàng hóa của Trung Quốc nghi ngờ chuyển tải qua nước thứ ba, trong đó có Việt Nam, để lẩn tránh các mức thuế cao do Hoa Kỳ áp dụng là ví dụ điển hình. Mặc dù nguyên nhân lớn nhất của việc gia tăng các vụ việc điều tra chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại là xu thế bảo hộ thương mại, còn có các nguyên nhân khác như sự thiếu kiến thức về pháp luật phòng vệ thương mại nói chung cũng như pháp luật về chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại nói riêng của các doanh nghiệp Việt Nam, thiếu thông tin về các vụ việc phòng vệ thương mại đang áp dụng, chạy theo lợi nhuận trước mắt... Bên cạnh đó, có thể có một số doanh nghiệp cá biệt lợi dụng chính sách đầu tư, chính sách thuận lợi hóa thương mại đối với các mặt hàng xuất khẩu để thực hiện các hành vi gian lận thương mại. Xu hướng mới trong bảo hộ thương mại của các nước có thể sẽ khiến trong tương lai gần hàng hóa Việt Nam xuất khẩu (như vào Hoa Kỳ) được lợi thế về giá; tuy vậy, có thể  thúc đẩy việc lợi dụng và giả mạo xuất xứ Việt Nam, kéo theo việc Việt Nam bị lôi kéo vào cuộc chiến và bị áp dụng các biện pháp thuế quan đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam… Các vụ kiện chống bán phá giá cá tra - basa, tôm, chống lẩn tránh thuế phòng vệ thương mại đối với thép cuộn, thép chống ăn mòn do Mỹ khởi xướng; chống trợ cấp dây đồng, ống thép không gỉ do Ấn Độ khởi xướng; biện pháp tự vệ với thép nhập khẩu vào EU... khiến Việt Nam gặp khó khăn trên thị trường quốc tế. Để giảm thiểu số lượng vụ việc hàng hóa Việt Nam bị điều tra lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại cũng như tác động tiêu cực mà các vụ việc này gây ra đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam, các cơ quan quản lý cần có các biện pháp tổng thể và lâu dài; trước mắt, tập trung vào ngăn chặn hiện tượng Việt Nam bị lợi dụng làm điểm trung chuyển để xuất khẩu hàng hóa sang nước thứ ba, đặc biệt tránh bị rơi vào hệ lụy của xung đột thương mại Hoa Kỳ - Trung Quốc, bảo vệ uy tín hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam, hướng tới xuất khẩu bền vững; đồng thời, giảm thiểu tình trạng các doanh nghiệp đầu tư không thực chất, chỉ thực hiện các giai đoạn gia công đơn giản, không mang lại giá trị gia tăng đáng kể vào Việt Nam; tiếp tục quá trình đổi mới toàn diện, đẩy mạnh chủ động hội nhập quốc tế và bảo đảm thực thi có hiệu quả cam kết của các FTA mà Việt Nam đang và sẽ tham gia. Đồng thời, Việt Nam cũng cần đa dạng hóa thị trường, chủ động nhận diện, thông tin và hỗ trợ doanh nghiệp đủ năng lực vượt qua các hàng rào kỹ thuật từ các đối tác xuất khẩu; cũng như, nhận thức đúng đắn và coi trọng xây dựng hàng rào kỹ thuật bảo vệ thị trường và lợi ích quốc gia, cộng đồng doanh nghiệp nội địa; tăng cường năng lực đối phó với những vụ kiện phòng vệ thương mại, đồng thời, linh hoạt sử dụng các biện pháp tự vệ, chống bán phá giá và chống bán trợ giá để bảo vệ quyền lợi chính đáng của các nhà sản xuất trong nước, phổ biến rộng rãi cho các doanh nghiệp biết và vận dụng… Ngày 04/7/2019, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 824/QĐ-TTg phê duyệt Đề án Tăng cường quản lý nhà nước về chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại và gian lận xuất xứ. Ngày 31/12/2019, Chính phủ cũng đã ban hành Nghị quyết số 119/NQ-CP về một số biện pháp cấp bách nhằm tăng cường quản lý nhà nước về phòng chống gian lận xuất xứ, chuyển tải hàng hóa bất hợp pháp. Thực hiện các chủ trương nói trên, thời gian qua, các đơn vị liên quan trong và ngoài Bộ Công Thương đã chủ động rà soát, xây dựng và hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật liên quan. Trong năm 2022, Bộ Công Thương đã phối hợp cùng với các Bộ, ngành liên quan triển khai có hệ thống hàng loạt các hoạt động, như cảnh báo sớm các mặt hàng có nguy cơ bị nước ngoài điều tra phòng vệ thương mại; hỗ trợ doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu xử lý ứng phó với các vụ việc phòng vệ thương mại cụ thể; tham gia cung cung cấp, giải trình các chính sách của Chính phủ bị cáo buộc trợ cấp; tham gia phản biện pháp lý đối với các vi phạm, khả năng vi phạm cam kết quốc tế của cơ quan điều tra nước ngoài; tiến hành các hoạt động giải quyết tranh chấp tại WTO; thực hiện các hoạt động hợp tác quốc tế để góp phần nâng cao năng lực phòng vệ thương mại. Trên cơ sở danh sách cảnh báo, các cơ quan chức năng của Bộ Công Thương, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Công an, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố đã phối hợp, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, xác minh việc cấp giấy chứng nhận xuất xứ, khai báo xuất xứ khi thông quan, đăng ký đầu tư nước ngoài... Đồng thời, các Hiệp hội, doanh nghiệp liên quan có thể chủ động xây dựng chiến lược sản xuất, xuất khẩu, chuẩn bị nguồn lực, xây dựng kế hoạch ứng phó trong trường hợp vụ việc xảy ra. Bộ Công Thương cũng đã phối hợp với Tổng cục Hải quan và cơ quan điều tra nước ngoài làm rõ các cáo buộc lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại; tăng cường hợp tác, chia sẻ thông tin nhằm chống lẩn tránh phòng vệ thương mại, gian lận xuất xứ, chuyển tải bất hợp pháp, lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại; đưa ra các khuyến nghị cho doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu nhằm tránh bị các nước khác điều tra phòng vệ thương mại, lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại. Các nỗ lực của Việt Nam đã được một số đối tác ghi nhận và đánh giá cao. Trong năm 2023, Bộ Công Thương tiếp tục triển khai các nhiệm vụ được giao tại Quyết định số 316/QĐ-TTg ngày 01/3/2020 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Xây dựng và vận hành hiệu quả hệ thống cảnh báo sớm về phòng vệ thương mại” và Quyết định số 824/QĐ-TTg ngày 04/7/2019 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Tăng cường quản lý nhà nước về chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại và gian lận xuất xứ” nhằm đưa ra những dự báo từ sớm, từ xa những mặt hàng xuất khẩu có nguy cơ bị nước ngoài tiến hành điều tra phòng vệ thương mại. Trên cơ sở những dự báo này, các ngành sản xuất trong nước có thêm thời gian chuẩn bị và chủ động hơn trong việc hợp tác với các cơ quan điều tra phòng vệ thương mại của nước ngoài, từ đó, bảo vệ được quyền và lợi ích chính đáng của các doanh nghiệp, hạn chế và giảm đáng kể những tác động tiêu cực của các biện pháp phòng vệ thương mại mà nước ngoài áp dụng đến hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam. Bên cạnh đó, đến hết năm 2023, Việt Nam đã tiến hành điều tra tổng cộng 27 vụ việc phòng vệ thương mại đối với hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam, trong đó có 18 vụ việc chống bán phá giá, 01 vụ việc chống trợ cấp, 06 vụ việc tự vệ và 02 vụ việc chống lẩn tránh. Trong năm 2023, Bộ Công Thương tiếp nhận và xử lý 05 hồ sơ đề nghị điều tra áp dụng biện pháp chống bán phá giá của ngành sản xuất trong nước, trong đó đã ban hành quyết định khởi xướng điều tra áp dụng biện pháp chống bán phá giá với 02 vụ việc, đối với 03 hồ sơ còn lại, Bộ Công Thương đang tiếp tục đề nghị ngành sản xuất trong nước hoàn thiện hồ sơ theo đúng quy định pháp luật. Bên cạnh đó, Bộ Công Thương đã hoàn thành rà soát với 07 vụ việc và triển khai điều tra, rà soát với 04 vụ việc rà soát các biện pháp phòng vệ thương mại đang được áp dụng theo quy định để đảm bảo các biện pháp được áp dụng đúng đối tượng, đúng mức độ và đúng điều kiện, trong đó có 04 vụ việc rà soát nhà xuất khẩu mới, 04 vụ việc rà soát hằng năm và 03 vụ việc rà soát cuối kỳ. Bộ Công Thương cũng theo dõi sát diễn biến giá cũng như tình hình nhập khẩu và rà soát định kỳ để điều chỉnh biện pháp phòng vệ thương mại cho phù hợp thực tiễn, tránh hiện tượng hàng hóa tăng giá do phòng vệ thương mại hay giảm động lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước. Các hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp của các cơ quan chức năng trong quá trình xử lý các vụ việc điều tra phòng vệ thương mại của nước ngoài đã đem lại những kết quả tích cực trong việc chứng minh doanh nghiệp không bán phá giá hay Chính phủ không trợ cấp, không can thiệp vào thị trường để tạo lợi thế bất bình đẳng cho doanh nghiệp xuất khẩu sang các thị trường như Hoa Kỳ, Canada, Australia, Ấn Độ, Malaysia, Indonesia… Theo tính toán, những ngành sản xuất đang được bảo vệ bởi các biện pháp phòng vệ thương mại ước tính đóng góp khoảng 6,3% GDP của cả nước. Nhờ đó, các doanh nghiệp xuất khẩu không bị áp thuế phòng vệ thương mại hoặc bị áp thuế ở mức thấp, góp phần giữ vững và mở rộng thị trường xuất khẩu. Các biện pháp phòng vệ thương mại đã và đang áp dụng góp phần bảo vệ công ăn việc làm của hàng trăm nghìn người lao động trong các lĩnh vực, khuyến khích sản xuất trong nước phát triển và hỗ trợ cân bằng cán cân thanh toán quốc tế; góp phần tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước hàng nghìn tỉ đồng; giảm bớt quy mô nhập khẩu và cải thiện đáng kể tình hình sản xuất kinh doanh, góp phần ổn định giá đầu vào cho một số ngành sản xuất trong nước. Về triển vọng, điểm cần nhấn mạnh là Việt Nam cần chú ý chủ động và hài hoà hơn giữa đối phó với các biện pháp phòng vệ thuơng mại quốc tế, với sử dụng hợp lý, hiệu quả các công cụ phòng vệ thương mại hợp pháp trong khuôn khổ WTO và các FTA mà Việt Nam đang và sẽ là thành viên, để vừa gia tăng xuất khẩu, vừa bảo vệ các ngành sản xuất và việc làm trong nước, đồng thời giảm mức độ phụ thuộc vào hàng hóa nhập khẩu. Thời gian tới, Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện về cơ sở pháp lý đối với công cụ phòng vệ thương mại; công khai thông tin, hỗ trợ tìm kiếm, tập hợp số liệu chính thức thuộc kiểm soát của cơ quan Nhà nước, đồng thời, có cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp bảo vệ lợi ích chính đáng của các ngành sản xuất trong nước thông qua việc điều tra, áp dụng các biện pháp phòng vệ trên nguyên tắc công khai, minh bạch, tuân thủ quy định pháp luật và phù hợp với các cam kết quốc tế của Việt Nam...; tăng cường ngăn chặn hiện tượng Việt Nam bị lợi dụng làm điểm trung chuyển để xuất khẩu hàng hóa sang nước thứ ba, bảo vệ uy tín hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam, hướng tới xuất khẩu bền vững. Đồng thời, chú ý bồi dưỡng và cập nhật thông tin, kiến thức, nhận thức, ý thức và năng lực cho cộng đồng doanh nghiệp Việt trong việc nâng cao sức đề kháng và sự chủ động đối phó và sử dụng công cụ phòng vệ thương mại, vượt lên tâm lý ngại kiện, hợp tác tương hỗ lẫn nhau, tạo dựng doanh nghiệp mạnh nhằm kiến tạo lợi thế quốc gia và bảo vệ hiệu quả lợi ích cộng đồng, cũng như lợi ích sát sườn của bản thân doanh nghiệp. Tác giả: TS. Nguyễn Minh Phong, Nguyên Phó Trưởng ban Tuyên truyền lý luận, Báo Nhân dân (Theo Tạp chí Nghiên cứu Khoa học kiểm toán tháng 12/2024) 

TÁI CẤU TRÚC THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN

Sau tiếng cồng khai trương phiên giao dịch chứng khoán đầu tiên trong năm Nhâm Thìn của Bộ trưởng Tài chính Vương Đình Huệ, những tín hiệu lạc quan cho các mã cổ phiếu giao dịch đã bao trùm trên bảng điện tử, nối tiếp những tín hiệu về một thị trường chứng khoán (TTCK) sẽ “xanh” hơn trong năm 2012 kể từ sau khi Bộ Tài chính công bố một trong số các biện pháp “cứu” TTCK là Đề án tái cấu trúc các công ty chứng khoán (CTCK)   Công ty chứng khoán- Phân loại khốc liệt?                 Đề án tái cấu trúc các công ty chứng khoán được Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành ngày 10/1/2012 tại Quyết định số 62/QĐ-BTC. Đây được coi là một mắt xích trong chuỗi giải cứu TTCK trong năm 2012 và những năm tiếp theo.                 Đề án này ra đời nhằm mục đích nâng cao chất lượng hoạt động, năng lực tài chính, quản trị doanh nghiệp và khả năng kiểm soát rủi ro của các công ty chứng khoán. Trên cơ sở đó, từng bước thu hẹp số lượng các công ty chứng khoán, đồng thời tăng cường khả năng, hiệu quả quản lý, giám sát đối với hoạt động công ty chứng khoán; mở cửa thị trường dịch vụ tài chính theo lộ trình hội nhập đã cam kết.                 Việc phân loại các CTCK để tái cấu trúc sẽ dựa trên cơ sở Thông tư 226 của BTC quy định chỉ tiêu an toàn tài chính và biện pháp xử lý đối với các tổ chức kinh doanh chứng khoán không đáp ứng các chỉ tiêu an toàn tài chính để tiến hành rà soát phân nhóm các CTCK theo mức độ rủi ro giảm dần, dựa trên 2 chỉ tiêu: Vốn khả dụng/tổng rủi ro (bao gồm rủi ro thị trường, rủi ro thanh toán, và rủi ro hoạt động) và tỷ lệ lỗ lũy kế/vốn điều lệ. Theo đó, nhóm 1 (nhóm bình thường) bao gồm các TCCK có tỉ lệ vốn khả dụng/tổng rủi ro trên 150% và có lãi hoặc lỗ lũy kế dưới 30% VĐL; nhóm 2 (nhóm kiểm soát) gồm các CTCK có tỉ lệ vốn khả dụng/tổng rủi ro dưới 150% tới trên 120% và có lỗ lũy kế từ 30% đến 50% VĐL; nhóm 3 (nhóm kiểm soát đặc biệt) gồm các CTCK có tỉ lệ vốn  khả dụng/tổng rủi ro dưới 120% và có lỗ lũy kế từ trên 50% VĐL.                 Theo phát biểu của người đứng đầu Ủy ban chứng khoán (UBCK) thì việc phân loại theo Thông tư 226 thực sự là cuộc chiến “khốc liệt” và ngày từ trước khi Đề án Tái cấu trúc CTCK được ban hành, Ủy ban này đã tiến hành làm việc với nhiều công ty để ra soát, nắm lại thực trạng tài chính làm căn cứ để tiến hành phân loại.                 Theo đề án thì ngay trong quý I/2012 (đến tháng 4/2012), những công ty chứng khoán có tỉ lệ vốn khả dụng/tổng rủi ro không đảm bảo quy định của Thông tư 226 sẽ phải thực hiện chế độ báo cáo hằng tuần, thậm chí hằng ngày (đối với những CTCK có tỉ lệ vốn khả dụng/tổng rủi ro dưới 120%). Nếu phát hiện CTCK chưa thực hiện tách biệt tài sản của NĐT khi đoàn kiểm tra phát hiện được, CTCK buộc phải thực hiện tách bạch trong thời hạn tối đa 2 tháng. Sở giao dịch chứng khoán, Trung tâm Lưu ký chứng khoán Việt Nam kiểm soát chặt chẽ vấn đề thanh toán giao dịch của CTCK. Còn trong trường hợp liên tục vi phạm thiếu tiền thanh toán, lạm dụng tiền gửi của khách hàng, xem xét rút phép nghiệp vụ môi giới.                 Các biện pháp tái cấu trúc tiếp theo trong giai đoạn những tháng còn lại của năm 2012 và sau năm 2012 cơ quan quản lý sẽ thực hiện các biện pháp mạnh tay hơn bao gồm cả kỹ thuật và hành chính. “Chúng tôi kết hợp 2 giải pháp hành chính và kỹ thuật, trong đó chủ yếu là biện pháp kỹ thuật. Đặt CTCK vào tình trạng kiểm soát thì buộc các đơn vị này phải lo tái cấu trúc: Khoanh nợ, bán tài sản xấu, giảm rủi ro, thu hẹp hoạt động. Khi đã vào nhóm kiểm soát đặc biệt thì CTCK phải có các biện pháp hành chính như họp ĐHCĐ rút nghiệp vụ môi giới”, Chủ tịch UBCK Vũ Bằng cho biết.                 Theo biện pháp được triển khai từ sau năm 2012, đề án đưa ra là cần tăng cường năng lực quản trị và hoạt động của các công ty chứng khoán dựa trên ba trụ cột chính: Quy định về mức độ đủ vốn; Quy định về hướng dẫn thông lệ khuôn khổ quản lý rủi ro cho các công ty chứng khoán; Đánh giá, xếp hạng các tổ chức kinh doanh chứng khoán theo thông lệ quốc tế từ đó phân loại và giám sát các tổ chức này.                 Đề án cũng đặt ra vấn đề là thu hẹp số lượng CTCK. Vấn đề là thu hẹp đến mức nào thì chưa có đề xuất cụ thể. Với con số hơn 100 CTCK-luôn được cho là quá nhiều như hiện nay thì bao nhiêu CTCK sẽ là phù hợp với TTCK Việt Nam sau khi Đề án tái cấu trúc TTCK chính thức được triển khai? Tuy nhiên, việc giảm bớt số lượng CTCK cũng không hề đơn giản. Bởi theo nhiều nhận định thì tư duy nhiệm kỳ, vấn đề lợi ích nhóm sẽ là rào cản cho vấn đề này.                 “Chứng khoán 2012 sẽ tiền hung, hậu cát” Đây là nhận định của Bộ trưởng Bộ Tài chính Vương Đình Huệ trong thông điệp đầu năm mới khi được báo giới hỏi về sự phát triển của TTCK trong năm 2012. Người đứng đầu Bộ Tài chính cho rằng năm nay kinh tế thế giới và Việt Nam vẫn gặp khó khăn. Nhưng “cái khó sẽ ló cái khôn", "tiền hung hậu cát" (khởi đầu khó khăn, kết thúc tốt đẹp). Cùng với các giải pháp quyết liệt về kỹ thuật, Bộ trưởng khẳng định cơ quan quản lý sẽ đảm bảo cho thị trường ngày một thông suốt, hiện đại và minh bạch hơn. "Các nhà đầu tư yên tâm với việc tin vào Chính phủ, tin vào các chính sách tái cấu trúc thì TTCK sẽ vượt qua khó khăn, phát triển hơn năm 2011". Bày tỏ niềm tin rằng 2012 sẽ là năm “khởi sắc” khi TTCK được tái cơ cấu, ông Huệ cho rằng việc đầu tiên cần làm là “trả lại tên cho chứng khoán” - một kênh dẫn vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế, chứ không để ngân hàng “lấn sân” như suốt thời gian qua. Tiếp đến sẽ sửa luật Chứng khoán, xử lý các công ty chứng khoán (CTCK) thua lỗ, yếu kém theo đề án tái cấu trúc đã được phê duyệt. Theo ông Huệ, TTCK là phong vũ biểu đo lường kinh tế vĩ mô, ngược lại, kinh tế vĩ mô mà tốt thì cũng là yếu tố thúc đẩy TTCK ổn định, tăng trưởng và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp huy động được nhiều vốn trên thị trường.                 Bên cạnh những hỗ trợ từ góc độ vĩ mô (kiểm chế lạm phát, tài khóa hiệu quả, linh hoạt…) Bộ trưởng Vương Đình Huệ cũng khẳng định, ngoài đề án Tái cấu trúc các CTCK đã ban hành, hiện nay các cơ quan chức năng, cùng với UBCKNN đang triển khai quyết liệt chiến lược phát triển TTCK đến năm 2020. Riêng với các doanh nghiệp, sẽ có giải pháp đẩy mạnh hơn nữa quá trình cổ phần hóa, hỗ trợ các doanh nghiệp để tăng hiệu quả sản xuất - cạnh tranh. Đối với 3 lĩnh vực cụ thể mà Bộ có thể trực tiếp hỗ trợ (tín dụng, thuế, phát triển trái phiếu doanh nghiệp), Bộ trưởng nhấn mạnh tới việc thúc đẩy hoạt động của các cơ quan định hạng tín nhiệm doanh nghiệp. Theo đó, đây sẽ là bước đi quan trọng để phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp và là thành tố để phát triển TTCK trong tương lai. “Tôi nghĩ rằng, với các biện pháp ngắn hạn, trung và dài hạn quyết liệt và đồng bộ như vậy và năm 2012 là năm đánh dấu việc tái cấu trúc mạnh mẽ nền kinh tế trong đó có tái cấu trúc đầu tư công, tái cấu trúc các tập đoàn, tổng công ty nhà nước, tái cấu trúc TTCK, thị trường sẽ vượt qua giai đoạn khó khăn hiện nay, đi vào ổn định và khởi sắc”, Bộ trưởng Huệ dự báo.                 Một thông tin quan trọng, theo ông Huệ, ngay trong quý 2/2012, Bộ Tài chính sẽ trình Chính phủ về việc thành lập Sở Giao dịch chứng khoán (GDCK) VN trên cơ sở sáp nhập 2 Sở GDCK Hà Nội và TP.HCM, tạo ra một thị trường giao dịch chứng khoán thống nhất nhằm nâng cao tính chuyên nghiệp, hiệu quả./.  

TÍN DỤNG XANH: CẦN MỘT CHIẾN LƯỢC TỔNG THỂ, KẾT NỐI VỚI CÁC MỤC TIÊU PHÁT TRIẾN KINH TẾ - XÃ HỘI

Việt Nam đã có 50 tổ chức tín dụng phát sinh dư nợ tín dụng xanh và dư nợ khoảng 650 nghìn tỷ đồng. Trong đó, tín dụng đối với năng lượng tái tạo, năng lượng sạch chiếm khoảng 45%; đối với nông nghiệp sạch, xanh chiếm 30%...   Quy mô và tỷ trọng vốn tín dụng xanh tăng trưởng khá qua các năm   Theo Hiệp hội thị trường tín dụng (Loan market Association) và Hiệp hội thị trường Tín dụng châu Á - Thái Bình Dương (Asia Pacific Loan Market Association), tín dụng xanh là những khoản tín dụng nhằm hỗ trợ các dự án sản xuất, kinh doanh không/ít gây rủi ro tới môi trường, góp phần bảo vệ sinh thái chung, là biểu hiện của nền tài chính hướng đến sự phát triển bền vững. Danh mục xanh bao gồm: Năng lượng tái tạo; sử dụng năng lượng hiệu quả; giao thông xanh; sản phẩm, các công nghệ sản xuất thân thiện với môi trường và/hoặc thích nghi với nền kinh tế; quản lý nước bền vững và xử lý nước thải; tòa nhà xanh; nông lâm nghiệp bền vững; ngăn chặn và kiểm soát ô nhiễm.   Tại Việt Nam, để hoàn thiện môi trường pháp lý nhằm bảo vệ môi trường, phát triển kinh tế xanh nói chung và mở rộng hoạt động tín dụng xanh nói riêng, Quốc hội, Chính phủ đã khẩn trương ban hành nhiều văn bản theo hướng không ngừng hoàn thiện môi trường pháp lý chung để bộ ngành, địa phương, ngành nghề triển khai nhằm tiến tới mục tiêu Net Zero năm 2050. Trong đó, Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 đã quy định, tín dụng xanh được cấp cho các dự án đầu tư: Sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên; ứng phó với biến đổi khí hậu; quản lí chất thải; xử lí ô nhiễm, cải thiện chất lượng môi trường; phục hồi hệ sinh thái tự nhiên; bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học; tạo ra lợi ích khác về môi trường.   Thực hiện Nghị quyết của Đảng, chủ trương của Chính phủ trong thời gian qua, ngành Ngân hàng đã tích cực, chủ động và sáng tạo trong triển khai thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp về tiền tệ, tín dụng ngân hàng nói chung, nhằm hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho người dân, doanh nghiệp, đối phó với tác động tiêu cực của thiên tai, biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường, phát triển kinh tế tuần hoàn. Ngân hàng Nhà nước cũng đã ban hành Kế hoạch hành động của ngành Ngân hàng thực hiện Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030; hoàn thiện cơ chế, chính sách hỗ trợ chuyển đổi số trong ngành ngân hàng, phát triển nền tảng số, hạ tầng số, sản phẩm, dịch vụ ngân hàng số để phục vụ phát triển kinh tế số, xã hội số, góp phần phát triển bền vững.   Theo Ngân hàng Nhà nước, trong giai đoạn 2017-2022, dư nợ cấp tín dụng của hệ thống ngân hàng đối với các lĩnh vực xanh có mức tăng trưởng dư nợ bình quân đạt hơn 23%/năm. Nếu năm 2018, quy mô và tỷ trọng vốn tín dụng của các tổ chức tín dụng đối với lĩnh vực kinh tế xanh chỉ chiếm 3,33% trong tổng tín dụng của nền kinh tế, đến năm 2022 tăng lên 4,2%. Thời điểm tháng 6/2023, dư nợ cấp tín dụng xanh của các tổ chức tín dụng đạt gần 528.300 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng khoảng 4,2% tổng dư nợ tín dụng của hệ thống ngân hàng đối với toàn bộ nền kinh tế. Đến nay, dư nợ tín dụng xanh khoảng 650 nghìn tỷ đồng, trong đó tín dụng đối với năng lượng tái tạo, năng lượng sạch chiếm khoảng 45%; đối với nông nghiệp sạch, xanh chiếm 30%...   Bên cạnh đó, giai đoạn năm 2016-2020, Việt Nam đã có 4 đợt phát hành trái phiếu xanh, giá trị 284 triệu USD. Giai đoạn năm 2019-2024, Việt Nam đã phát hành khoảng 1,16 tỷ USD trái phiếu xanh. Nhiều tổ chức tín dụng đã ban hành quy định nội bộ về rủi ro môi trường và tác động xã hội; 80% đến 90% các ngân hàng thương mại đã áp dụng một phần hoặc toàn bộ chỉ số đánh giá môi trường, xã hội và quản trị (ESG) trong hoạt động.   Thực tiễn hoạt động tín dụng xanh đã được một số ngân hàng đưa vào áp dụng, triển khai và đã đạt được những kết quả khả quan. Theo đó, nhiều ngân hàng như BIDV, Vietcombank, VietinBank, MB đạt tăng trưởng dư nợ tín dụng xanh bình quân lên tới 45%/năm. Hay như SeABank đã được nhiều tập đoàn/tổ chức tài chính quốc tế như IFC, DFC và nhiều quỹ đầu tư quốc tế tài trợ vốn lên tới gần 600 triệu USD để triển khai các chương trình tín dụng xanh, hỗ trợ các hoạt động kinh doanh thuộc các ngành, lĩnh vực thân thiện với môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu.   Xây dựng chiến lược tổng thể để phát triển thị trường tài chính xanh   Bên cạnh những kết quả đạt được, việc triển khai nhằm thúc đẩy tín dụng xanh của các tổ chức tín dụng đang gặp một số khó khăn. Theo ThS. Dương Văn Bôn, Trường Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam chưa có quy định chung về tiêu chí, danh mục dự án xanh cho các ngành, các lĩnh vực theo hệ thống phân ngành kinh tế, làm căn cứ để các tổ chức tín dụng xác định cấp tín dụng xanh cho giai đoạn tới. Khung pháp lý về tín dụng xanh của Việt Nam chưa hoàn thiện, gây ra khó khăn trong việc phát triển hoạt động này trên thực tiễn. Nhiều văn bản pháp lý đang được ban hành về tín dụng xanh, ngân hàng xanh của Ngân hàng Nhà nước còn chung chung. Nội dung cụ thể về ngân hàng xanh, tín dụng xanh về cơ bản mới chỉ mang tính chất định hướng, khuyến khích các tổ chức tín dụng thực hiện, mà chưa mang tính bắt buộc.     Việc cấp tín dụng xanh đòi hỏi yếu tố kỹ thuật về môi trường chuyên sâu sẽ là khó khăn cho cán bộ tín dụng của các tổ chức tín dụng trong việc thẩm định, đánh giá hiệu quả của dự án, khả năng trả nợ của khách hàng. Đặc biệt là khách hàng trong các lĩnh vực năng lượng tái tạo, với dự án đi vào hoạt động trong thời gian chưa dài, hiệu quả phụ thuộc nhiều vào hợp đồng mẫu. Bên cạnh đó, các tổ chức tín dụng gặp khó khăn trong việc giám sát và quản lý rủi ro khi thực hiện cấp tín dụng xanh do còn thiếu cơ sở pháp lý, tiêu chí, tiêu chuẩn đánh giá công cụ đo lường tác động đến môi trường.   TS. Nguyễn Quốc Hùng - Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam đánh giá, mặc dù đã có những tín hiệu tích cực trong tăng trưởng tín dụng xanh, ngân hàng xanh, song vẫn chưa khai thác hết tiềm năng. Việc phát triển hoạt động ngân hàng xanh tại các tổ chức tín dụng còn nhiều bất cập do cần nguồn lực rất lớn để triển khai; kiến thức, kinh nghiệm của các cán bộ ngân hàng thực hiện công tác thẩm định và phê duyệt cấp tín dụng liên quan các vấn đề môi trường xã hội nhìn chung còn hạn chế. Một số ngân hàng rất chủ động, tiên phong nhưng số khác lại rất chậm.   Về phía các doanh nghiệp, trong quá trình tiếp cận tài chính xanh, các doanh nghiệp gặp khó khăn do thiếu thông tin về các đơn vị cấp tín dụng xanh; các quỹ tín dụng xanh thường không chấp nhận tài sản bảo đảm, doanh nghiệp cần có bảo lãnh ngân hàng; các dự án quy mô nhỏ khó tiếp cận vốn vay nước ngoài…   Theo Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng, đối với tín dụng xanh, hiện Ngân hàng Nhà nước gặp nhiều khó khăn, vướng mắc do hệ thống ngân hàng cần được hướng dẫn của các cơ quan, bộ ngành liên quan đến danh mục phân loại xanh để các tổ chức tín dụng có căn cứ khi cấp tín dụng. Bên cạnh đó, đầu tư vào những lĩnh vực xanh như năng lượng tái tạo, năng lượng sạch… đòi hỏi nguồn vốn với giá trị rất lớn và kì hạn dài. Đây chính là những khó khăn của hệ thống ngân hàng khi nguồn vốn huy động của hệ thống ngân hàng rất ngắn hạn.   Việt Nam là nước chịu tác động lớn bởi biến đổi khí hậu, tình hình bão lũ thiên tai vừa qua đặt ra yêu cầu cho các cơ quan, bộ ngành phải tập trung rà soát những giải pháp để ứng phó hiệu quả. Ngành ngân hàng đã ban hành rất nhiều các văn bản hướng dẫn để đánh giá về rủi ro và môi trường trong hoạt động cấp tín dụng. Tuy nhiên, việc chưa có danh mục về phân loại xanh khiến Ngân hàng Nhà nước gặp khó khăn. Do đó, thời gian tới, Ngân hàng Nhà nước sẽ tiếp tục quan tâm thực hiện triển khai theo đúng kế hoạch của Thủ tướng Chính phủ, đặc biệt, khi Thủ tướng Chính phủ phê duyệt danh mục phân loại xanh, Ngân hàng Nhà nước sẽ hướng dẫn các tổ chức tín dụng cấp tín dụng xanh và theo dõi thực hiện, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng nhấn mạnh.   Việt Nam đặt mục tiêu cuối năm 2025 tăng trưởng dư nợ tín dụng xanh đạt 25% so với hiện nay; đạt 30% đến 35%/năm cho giai đoạn năm 2025-2030. Tương ứng tỷ lệ trên là mục tiêu tỷ trọng tín dụng xanh trong nền kinh tế từ 4,6% tăng lên 10% vào cuối 2025 và 20% vào cuối năm 2030. Đây là những thách thức rất lớn, mục tiêu khó khăn đối với ngành ngân hàng.   Tại diễn đàn Tài chính xanh năm 2024, Phó Giám đốc Ban kinh doanh vốn và tiền tệ Ngân hàng BIDV Nguyễn Bá Sơn khuyến nghị, cần sớm ban hành quy định phân loại và xác nhận dự án xanh, xem xét sự tương đồng giữa các tiêu chí xanh của Việt Nam và các tiêu chuẩn quốc tế; các chính sách ưu đãi để thu hút nhà đầu tư, đào tạo nguồn nhân lực về môi trường và xây dựng hệ thống dữ liệu về môi trường. Cùng với đó, doanh nghiệp cần được nâng cao nhận thức và khuyến khích thực hiện chuyển đổi xanh; duy trì, mở rộng các cơ chế hỗ trợ chi phí phát hành, tư vấn kỹ thuật và khuyến khích các doanh nghiệp đầu ngành tiên phong phát hành chứng khoán xanh.   Các chuyên gia cho rằng, để phát triển tín dụng xanh, trước tiên là phải hoàn thiện khung pháp lý, xây dựng các tiêu chí xác định dự án xanh. Đây là cơ sở để các tổ chức tín dụng làm căn cứ lựa chọn, thẩm định, đánh giá và giám sát khi thực hiện cấp tín dụng xanh cho các dự án. Tiếp đó, Việt Nam cần có một chiến lược tổng thể để phát triển thị trường tài chính xanh một cách hài hòa, hiệu quả giữa các kênh dẫn vốn, gắn với các định hướng, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội; có cơ chế thu hút nguồn vốn cho đầu tư xanh bằng chính sách miễn giảm thuế, phí, lệ phí, lãi suất và hỗ trợ các chi phí liên quan đến phát hành trái phiếu xanh, cung cấp tín dụng xanh. Các chính sách liên quan đến thị trường tài chính xanh cần sớm được ban hành hoặc lồng ghép với những chính sách về tăng trưởng xanh, kinh tế tuần hoàn, chuyển đổi năng lượng và ứng phó biển đổi khí hậu...   Theo ước tính của Ngân hàng Thế giới, từ nay đến năm 2040, Việt Nam cần đầu tư bổ sung 368 tỉ USD, tương đương khoảng 6,8% GDP mỗi năm cho lộ trình chống chịu và đưa phát thải ròng về 0.

ĐỘNG LỰC VÀ THÁCH THỨC VỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ

Nền kinh tế đã có những bước phục hồi mạnh mẽ trong 10 tháng năm nay. Mục tiêu tăng trưởng kinh tế từ trên 7% được đánh giá là khả thi. Tuy nhiên, diễn biến địa chính trị thế giới còn nhiều yếu tố khó lường, kinh tế thế giới chưa trở lại đà tăng trưởng mạnh mẽ. Bên cạnh đó, nội lực nền kinh tế Việt Nam vẫn còn nhiều điểm hạn chế. Do đó, để sức hồi phục của nền kinh tế mạnh mẽ và bền vững trong năm nay và năm sau, cần thực hiện các giải pháp đồng bộ và chú trọng thúc đẩy hiệu quả các động lực tăng trưởng.   Triển vọng tích cực song còn nhiều thách thức   Điểm đáng chú ý nhất trong bức tranh kinh tế từ đầu năm đến nay là chuyển biến ngày càng tích cực trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trong đó, sản xuất công nghiệp tiếp tục phục hồi nhanh, là động lực dẫn dắt cho tăng trưởng. Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tháng 10 tăng 7% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số nhà quản trị mua hàng (PMI) tháng 10 đạt 51,2 điểm, tăng so với 47,3 điểm của tháng 9 và đã vượt lại lên trên ngưỡng 50 điểm sau khi chịu tình trạng gián đoạn do cơn bão số 3 gây ra trong tháng trước cho thấy sản xuất công nghiệp đã phục hồi nhanh sau bão số 3. Trong tháng 10, có 22,8 nghìn doanh nghiệp gia nhập và tái gia nhập thị trường, tăng 29% so với tháng trước; tính chung 10 tháng có 202,3 nghìn doanh nghiệp, cao hơn số rút lui khỏi thị trường (173,2 nghìn doanh nghiệp). Các động lực tăng trưởng từ phía cầu phục hồi tích cực. Tổng vốn FDI đăng ký 10 tháng khoảng 27,3 tỷ USD, tăng 1,9% so với cùng kỳ. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 10 tháng tăng 8,5% so với cùng kỳ. Kim ngạch xuất nhập khẩu, xuất khẩu, nhập khẩu 10 tháng tăng lần lượt 15,8%, 14,9% và 16,8% so với cùng kỳ; xuất siêu ước đạt 23,3 tỷ USD.   Dù vậy, với tác động của các bất ổn địa chính trị toàn cầu, trong khi sức cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước vẫn còn yếu, nền kinh tế đang đối mặt nhiều thách thức. Trong đó, rõ rệt nhất là ngành nông nghiệp, du lịch bị ảnh hưởng nặng nề bởi thiên tai, các cơn bão lớn liên tiếp, đặc biệt là cơn bão số 3. Ảnh hưởng, thiệt hại bởi cơn bão số 3 cần thời gian để khắc phục. Tổng thiệt hại kinh tế ước tính sơ bộ là 81,8 nghìn tỷ đồng (tương đương 0,8% GDP năm 2023 theo giá hiện hành), gấp 6,7 lần thiệt hại thiên tai của năm 2023 và cao hơn tổng thiệt hại do thiên tai của cả ba năm 2021-2023.     Về thị trường, sức mua trong nước chậm phục hồi; tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 10 tháng (nếu loại trừ yếu tố giá) tăng 4,6% so với cùng kỳ, thấp nhất từ đầu năm đến nay. Mức tăng này cũng thấp hơn tốc độ tăng cùng kỳ năm 2023 và giai đoạn 2015-2019.   Mặt khác, những bất ổn từ biến động địa chính trị thế giới đang tạo rủi ro đáng chú ý với đà phục hồi và tăng trưởng của kinh tế Việt Nam trong những tháng cuối năm nay và cả năm sau. Đó là, tình trạng xung đột quân sự tiếp tục leo thang giữa Israel - Iran, các yếu tố bất ổn mới xuất hiện tại bán đảo Triều Tiên và một số quốc gia, khu vực. Kinh tế toàn cầu phục hồi chậm, không đồng đều và thiếu vững chắc; kinh tế Mỹ duy trì tốc độ tăng trưởng ổn định trong Quý III, trong khi Trung Quốc, EU, Hàn Quốc tăng trưởng thấp, tiếp tục đối mặt với nhiều rủi ro.   Đẩy mạnh các động lực tăng trưởng   Về triển vọng và giải pháp thực hiện để đạt mục tiêu tăng trưởng năm nay và năm sau, TS. Cấn Văn Lực, thành viên hội đồng tư vấn chính sách tài chính - tiền tệ quốc gia cho rằng, cần thực hiện đồng bộ và hiệu quả nhiều nhóm chính sách. Trong đó, quan trọng nhất là quyết liệt đẩy mạnh hoàn thiện thể chế, cải cách thủ tục hành chính, tạo môi trường thuận lợi hơn cho đầu tư - kinh doanh; tháo gỡ kịp thời các vướng mắc trong quá trình triển khai các luật đã có hiệu lực, nhất là các Luật Đất đai, Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh bất động sản, Luật Các tổ chức tín dụng, Luật Giao dịch điện tử...   Đồng thời, cần nâng cao hiệu quả trong điều hành, phối hợp chính sách tiền tệ - tài khóa, chính sách giá cả nhằm thúc đẩy tăng trưởng, ổn định vĩ mô, bình ổn tỷ giá, lãi suất, thị trường tài chính - tiền tệ, đảm bảo an sinh xã hội. Theo đó, chính sách tài khóa mở rộng có trọng tâm, trọng điểm, gắn với đẩy mạnh giải ngân đầu tư công; chính sách tiền tệ theo hướng chủ động, linh hoạt, tăng khả năng tiếp cận tín dụng gắn với kiểm soát rủi ro và xử lý nợ xấu; quan tâm kiểm soát rủi ro hệ thống liên thông giữa ngân hàng - chứng khoán - bất động sản.   Đáng chú ý, cần phát huy các động lực tăng trưởng truyền thống từ xuất khẩu, đầu tư tư nhân và tiêu dùng, triển khai hiệu quả các gói hỗ trợ tài khóa như giãn, hoãn, giảm thuế, phí, tiền thuê đất, tiền sử dụng đất, cũng như các chính sách về tín dụng - tiền tệ để hỗ trợ người dân, doanh nghiệp, các ngành, lĩnh vực bị thiệt hại bởi cơn bão số 3 vừa qua.   Trong khi đó, theo TS. Nguyễn Tú Anh, Giám đốc Trung tâm Thông tin, phân tích và dự báo kinh tế, Ban Kinh tế Trung ương, một động lực tăng trưởng quan trọng trong thời gian tới là cầu đầu tư, trong đó đầu tư nhà nước là một phần và đầu tư tư nhân có thể tăng lên cùng với sự phục hồi và kỳ vọng vào đà tăng trưởng của nền kinh tế. “Tôi hy vọng, một trong những đột phá trong năm 2025 là sẽ có những quyết sách mới với đầu tư công để đẩy tiền ra nhanh hơn”, ông Tú Anh nhấn mạnh.   Từ góc độ khác, ông Nguyễn Bá Hùng, Chuyên gia Kinh tế trưởng, Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) tại Việt Nam cũng cho rằng các động lực tăng trưởng ở phía cầu bao gồm tiêu dùng, đầu tư, chi tiêu chính phủ và xuất nhập khẩu. Theo đó, năm 2024, xuất nhập khẩu tăng mạnh dù có phần nhờ tăng trưởng trên nền thấp của năm trước. Năm 2025, thị trường thế giới hạ nhiệt, triển vọng xuất khẩu năm 2025 sẽ không duy trì được như năm nay. Do đó, năm 2025, cần thúc đẩy mạnh các động lực tăng trưởng như tiêu dùng, chi tiêu của Chính phủ. “Động lực tăng trưởng nằm trong tay Chính phủ, bao gồm cả chi tiêu ngân sách và đầu tư công. Đòn bẩy là chi tiêu công, kích cầu nội địa kéo đầu tư nội địa và tiêu dùng tăng lên", ông Bá Hùng đánh giá.   BOX: Tập trung triển khai các giải pháp đồng bộ, bứt phá trong giải ngân vốn đầu tư công, thực hiện 03 Chương trình mục tiêu quốc gia; đẩy mạnh xây dựng kết cấu hạ tầng chiến lược, nhất là những dự án có tính chất xoay chuyển tình thế, chuyển đổi trạng thái; tập trung nguồn lực cho các dự án liên vùng, liên tỉnh, liên quốc gia, quốc tế.   Trong đó, các bộ, cơ quan, địa phương có tỷ lệ giải ngân dưới mức trung bình của cả nước tập trung chỉ đạo, đôn đốc, tăng cường hơn nữa trách nhiệm của người đứng đầu trong giải ngân vốn đầu tư công. Các bộ, cơ quan, địa phương được Thủ tướng Chính phủ giao bổ sung kế hoạch năm 2024, khẩn trương thực hiện phân bổ chi tiết cho các nhiệm vụ, dự án, phấn đấu giải ngân 100% kế hoạch vốn mới được bổ sung.   Tăng cường hoạt động của các Tổ công tác kiểm tra, đôn đốc giải ngân đầu tư công, nhất là đối với các bộ, cơ quan, địa phương có mức phân bổ vốn lớn nhưng tốc độ giải ngân chậm. Kịp thời xử lý khó khăn, vướng mắc, giải quyết dứt điểm tồn tại kéo dài để đẩy nhanh tiến độ các công trình, dự án hạ tầng quan trọng, trọng điểm quốc gia, không để xảy ra thất thoát, lãng phí.   Tiếp tục đẩy mạnh triển khai giải ngân vốn thực hiện các Chương trình mục tiêu quốc gia; khẩn trương sửa đổi, bổ sung hoặc trình cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung các văn bản về quản lý, tổ chức thực hiện các Chương trình theo ngành, lĩnh vực và địa bàn được phân công; chủ động rà soát, phát hiện khó khăn, vướng mắc, có giải pháp tháo gỡ hoặc báo cáo cấp có thẩm quyền xem xét, xử lý kịp thời.   (Trích Nghị quyết số 218/NQ-CP ngày 12/11/2024 phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 10 /2024)

CHẶNG ĐƯỜNG MỚI CỦA TÁI CƠ CẤU NGÂN HÀNG

Sau 9 năm Ngân hàng Nhà nước mua lại bắt buộc 4 ngân hàng thương mại, đến nay, mới có 2 ngân hàng 0 đồng là Ngân hàng Xây dựng (CBBank) và Ngân hàng Đại dương (OceanBank) chính thức được chuyển giao bắt buộc lần lượt cho Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) và Ngân hàng Quân đội (MBBank). Ngân hàng Dầu khí Toàn cầu (GPBank) đã hoàn tất khâu định giá, Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Á đang triển khai tích cực các công việc theo đề án tái cơ cấu đã được phê duyệt. Quá trình tái cơ cấu các ngân hàng yếu kém rất gian nan song cũng đã đi đến một bước ngoặt mới, kỳ vọng sẽ tạo được bước đột phá trong thời gian tới.      Giúp các ngân hàng yếu kém khắc phục khó khăn   Ông Nguyễn Đức Long, Phó Chánh thanh tra Cơ quan thanh tra giám sát Ngân hàng Nhà nước cho biết mục tiêu của chuyển giao bắt buộc là nhằm giúp các ngân hàng yếu kém khắc phục khó khăn, đảm bảo an toàn, tuân thủ các quy định pháp luật,  trước - trong và sau quá trình chuyển giao, tiền gửi của người gửi tiền hoàn toàn được đảm bảo.   Theo quy định tại Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024, kể từ lúc được chuyển giao, toàn bộ quyền và lợi ích của chủ sở hữu, thành viên góp vốn hay cổ đông của ngân hàng được chuyển giao bắt buộc sẽ chấm dứt. Bên nhận chuyển giao sẽ tiếp nhận và chịu trách nhiệm với toàn bộ các quyền và nghĩa vụ của ngân hàng được chuyển giao bao gồm các khoản vay, tiền gửi của khách hàng…   Về quyền lợi của ngân hàng nhận chuyển giao, theo ông Long, ngân hàng nhận chuyển giao sẽ được hưởng một số cơ chế hỗ trợ như tỷ lệ tăng trưởng tín dụng tốt hơn. Tuy nhiên, các cơ chế hỗ trợ này vẫn theo quy định pháp lý hiện hành, đặc biệt là Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024.   Luật Các tổ chức tín dụng hiện hành quy định rất nhiều quyền lợi mà bên nhận chuyển giao bắt buộc có thể được hưởng, bao gồm: Sở hữu 100% vốn điều lệ của ngân hàng thương mại được chuyển giao bắt buộc đối với trường hợp ngân hàng thương mại được chuyển giao bắt buộc chuyển đổi thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên; Không thực hiện hợp nhất báo cáo tài chính của ngân hàng thương mại được chuyển giao bắt buộc; Được loại trừ ngân hàng thương mại được chuyển giao bắt buộc khi tính tỷ lệ an toàn vốn hợp nhất; Khoản vốn góp vào ngân hàng thương mại được chuyển giao bắt buộc không phải thực hiện trích lập dự phòng giảm giá các khoản đầu tư và được loại trừ khi tính giới hạn góp vốn, mua cổ phần của tổ chức tín dụng nhận chuyển giao.     Bên cạnh đó, tổ chức tín dụng trong nước khi nhận chuyển giao bắt buộc còn có thể được tạo điều kiện thông qua dự thảo quy định về việc tăng tỷ lệ sở hữu vốn của nhà đầu tư nước ngoài trong tổ chức tín dụng nhận chuyển giao bắt buộc. Cụ thể, Ngân hàng Nhà nước dự kiến đã có tờ trình gửi Chính phủ về việc ban hành Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số 01/2014/NĐ-CP ngày 03/01/2014 của Chính phủ về việc nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần của tổ chức tín dụng Việt Nam. Trong đó, nổi bật là đề xuất nâng tổng mức sở hữu cổ phần của các nhà đầu tư nước ngoài tại ngân hàng nhận chuyển giao bắt buộc vượt 30% nhưng không vượt quá 49% vốn điều lệ của ngân hàng nhận chuyển giao bắt buộc.   Nên đẩy nhanh tiến độ   Tại Đại hội đồng cổ đông thường niên 2024 vừa qua, ông Đỗ Việt Hùng - Thành viên Hội đồng quản trị Ngân hàng Vietcombank cho biết, nếu nhận chuyển giao ngân hàng yếu kém, Vietcombank sẽ được cấp hạn mức tăng trưởng tín dụng cao hơn, có quyền định đoạt, xử lý tổ chức chuyển giao bắt buộc, nếu tìm được tổ chức nước ngoài phù hợp, có thể bán tổ chức nhận chuyển giao, duy trì hoặc có phương án khác như chuyển đổi, cải cách (chẳng hạn như chuyển sang ngân hàng số). Tại Đại hội đồng cổ đông thường niên 2024, lãnh đạo Ngân hàng MBBank (MB) cho biết, việc nhận chuyển giao bắt buộc một tổ chức tín dụng giúp MBBank có cơ hội để tăng trưởng quy mô cao hơn mức tăng trưởng bình quân thị trường khoảng 1,5 đến 2 lần trong dài hạn, cải thiện thứ hạng cạnh tranh và có nhiều không gian tăng trưởng mới. Đồng thời, việc tối ưu mạng lưới kênh phân phối của MB và tổ chức tín dụng được chuyển giao bắt buộc cùng với các điều kiện ưu tiên được phát triển mạng lưới trong tương lai sẽ giúp MB tiết kiệm thời gian và chi phí đầu tư, tăng độ bao phủ phục vụ khách hàng theo chiến lược bán lẻ và chuyển đổi số của MB. Trong thời gian thực hiện phương án chuyển giao bắt buộc, MB được xử lý phần vốn góp, xử lý cổ phần dưới các hình thức phù hợp hoặc sáp nhập theo phương án chuyển giao bắt buộc được phê duyệt, qua đó MB có cơ hội tạo giá trị thặng dư vốn và/ hoặc tăng quy mô cho MB. TS. Châu Đình Linh, giảng viên Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh cho rằng, thông thường, một ngân hàng đang phát triển tốt không muốn nhận chuyển giao một ngân hàng yếu kém bởi lợi ích nhận được chưa rõ ràng, trong khi sự phức tạp và rủi ro của công tác quản trị thì được nhận diện rõ. Do đó, từ lúc mua lại các ngân hàng 0 đồng, phải mất 9 năm mới hoàn tất định giá, riêng quá trình định giá mất đến 2 năm. “Việc chuyển giao các ngân hàng yếu kém là cột mốc mới của tiến trình phát triển hệ thống ngân hàng Việt Nam. Số lượng ngân hàng được thu gọn hơn, nhưng chất lượng được cải thiện. Nỗ lực này cũng khẳng định quyết tâm của Chính phủ trong việc xử lý các ngân hàng yếu kém, lành mạnh hóa hệ thống ngân hàng theo hướng hiện đại, bền vững”, ông Linh nói. Ông Linh kiến nghị nên đẩy nhanh tiến độ định giá và tái cơ cấu các ngân hàng yếu kém, đồng thời, để ngăn phát sinh thêm các trường hợp rủi ro, cần kích hoạt chức năng giám sát tự động bằng công nghệ mới với công nghệ quản trị rủi ro hiện đại, kịp thời và hiệu quả, ngăn chặn các vụ việc đáng tiếc trước khi quá muộn. Bích Thủy