Tại Hội thảo khoa học bàn luận về việc kiểm toán thu sử dụng đất với việc tăng cường quản lý thu ngân sách nhà nước và nâng cao hiệu lực quản lý đất đai tại các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, PV Tạp chí NCKHKT đã có dịp trao đổi với Bà Trương Thị Việt Hương, Kiểm toán trưởng KTNN KV IV, khu vực được đánh giá là một trong những đơn vị đầu tiên triển khai mạnh nội dung kiểm toán thu sử dụng đất.
* Thưa bà, KTNN KV IV được nhìn nhận là đơn vị thực hiện khá sâu về lĩnh vực kiểm toán thu tiền sử dụng đất, vấn đề đang được dư luận rất quan tâm. Vậy bà có thể giới thiệu qua về những cuộc kiểm toán mà KTNN KV IV đã thực hiện có đề cập tới vấn đề này? Qua thực tiễn kiểm toán cho thấy vấn đề thu sử dụng đất còn có những bất cập gì?
- Trong quá trình thực hiện kiểm toán ngân sách địa phương, những năm gần đây lãnh đạo KTNN KV IV đã chú trọng tổ chức kiểm toán thu tiền sử dụng đất, thu tiền thuê đất và đạt được kết quả nhất định, góp phần tích cực đối với công tác quản lý, điều hành ngân sách địa phương. Trong thực tế, KTNN nói chung và KTNN KV IV chưa thực hiện cuộc kiểm toán chuyên đề nào về thu sử dụng đất mà chỉ gói gọn trong các cuộc kiểm toán ngân sách địa phương. Do KTNN KV IV đặt tại khu kinh tế trọng điểm phía Nam, các tỉnh miền Đông Nam Bộ, bao gồm TP. HCM, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tầu, một phần Long An, Bình Phước, Tây Ninh, những địa phương này thời gian qua hoạt động giao đất, sử dụng đất diễn ra nhiều, do đó việc kiểm tra đất thu nói chung là công tác thường xuyên của khu vực, trong đó có kiểm toán thu sử dụng đất. Cũng xin được nhấn mạnh là chúng ta chưa chuyên sâu mà nội dung kiểm toán thu sử dụng đất chỉ gói gọn trong các cuộc kiểm toán ngân sách địa phương do đó đòi hỏi trong thời gian tới, chắc chắn vẫn với những địa bàn như vậy, chúng ta cần có sự chuyên sâu đối với lĩnh vực này và các dự án có sử dụng đất đai, tài nguyên nhà nước.
Về những bất cập của hoạt động thu sử dụng đất được phát hiện qua thực tiễn kiểm toán xin được nói ngắn gọn thế này: Qua kiểm toán, các đoàn kiểm toán đã phát hiện các sai phạm phổ biến trong quản lý thu tiền sử dụng đất của các địa phương như: Tính tiền sử dụng đất theo đơn giá thấp hơn đơn giá thực hiện nghĩa vụ tài chính tại thời điểm có quyết định giao đất, thời điểm bàn giao đất thực tế như quy định của pháp luật; Xác định không đúng vị trí thửa đất, dẫn đến áp đơn giá đất tính tiền sử dụng đất thấp hơn mức quy định; Không áp dụng đơn giá theo giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường trong điều kiện bình thường theo quy định tại điều 11, Nghị định 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ; Một số trường hợp tính tiền sử dụng đất không phù hợp với diện tích được giao đất thực; Khấu trừ tiền bồi thường giải phóng mặt bằng của diện tích đất giao không thu tiền sử dụng đất vào tiền sử dụng đất phải nộp của diện tích giao đất có thu tiền sử dụng đất, không đúng quy định tại Điều 3 Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 và Điều 5 Nghị định số 198/2004/NĐ-CP của Chính phủ, làm giảm số tiền sử dụng đất phải nộp NSNN; Miễn giảm tiền sử dụng đất không đúng quy định... Những sai phạm trên đây chủ yếu là do việc áp dụng chính sách, do công tác điều hành, quản lý thu của địa phương, nhưng cũng có trường hợp do cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản hướng dẫn địa phương thực hiện không phù với quy định pháp luật.
* Vậy những kết quả đã đạt được của kiểm toán thu sử dụng đất tại Tp. Hồ Chí Minh và các tỉnh Đông Nam bộ như thế nào thưa bà?
- Thời gian vừa qua KTNN KV IV đã tổ chức nghiên cứu về chế độ thu tiền sử dụng đất của Nhà nước, quy trình thu tiền sử dụng đất, quy trình và phương pháp kiểm toán, do vậy đã đạt được những kết quả nhất định, số kiến nghị truy thu nộp ngân sách khá lớn, chiếm tỷ trọng cao trong tổng số kiến nghị tăng thu ngân sách nhà nước của đơn vị, góp phần lớn cho tăng thu toàn ngành. Theo thống kê chưa đầy đủ, số kiến nghị truy thu tiền sử dụng đất qua các năm từ 2007 đến 2010 như sau: năm 2007, khu vực thu được 785 tỷ, chiếm 65% kiến nghị tăng thu NSNN của khu vực (785/1214 tỷ); năm 2008 thu 1.049 tỷ, chiếm 75,5% kiến nghị tăng thu NSNN của khu vực (1.049/1.389 tỷ); năm 2009 thu 1.020 tỷ, chiếm 77% kiến nghị tăng thu NSNN của khu vực (1.020/1.324 tỷ) và năm 2010 thu 166 tỷ, chiếm 25% kiến nghị tăng thu NSNN của khu vực (166/674 tỷ). Đây là con số tương đối ấn tượng, tuy nhiên vẫn chưa thể hiện hết đươc số thực tế mà khu vực phải làm và sẽ làm, bởi vì đây là những mẫu chọn các dự án đã giao đất và bị gói gọn trong cuộc kiểm toán ngân sách địa phương, bị giới hạn về mặt thời gian, về mặt đối tượng, nhất là KTV phải thay đổi theo quy định của ngành, cho nên đôi khi việc chuyên sâu cũng còn có những hạn chế nhất định.
* Thưa bà, từ trước tới nay, KTNN chưa chính thức triển khai một cuộc kiểm toán chuyên đề nào về nội dung kiểm toán thu sử dụng đất mà hầu hết làm lồng ghép. Vậy theo bà đâu là những thuận lợi và những khó khăn khi thực hiện kiểm toán nội dung này?
Theo thực tế của KTNN KV IV khi thực hiện nội dung kiểm toán này, chúng tôi có những thuận lợi sau:
Thứ nhất là khu vực có được đội ngũ KTV có trình độ, đặc biệt là có kinh nghiệm được tích lũy trong nhiều năm khi tiến hành truy thu lĩnh vực là các đối tượng, dự án về sử dụng đất. KTNN KV IV cũng có lợi thế là đạo đức hành nghề tốt. Bên cạnh đó, việc thực hiện các biện pháp kỷ luật của lãnh đạo KTNN khu vực cũng rất chặt chẽ, khu vực quy định phải có sự giám sát trong việc tiếp xúc với hồ sơ ngay từ ban đầu, việc đăng ký hồ sơ, chọn mẫu đều phải có sự thông báo đến đoàn, đến đối tượng được kiểm toán và thông qua cục Thuế để tránh sự tiếp xúc giữa KTV và đối tượng được kiểm toán. Nhìn chung, các biện pháp về mặt nghiệp vụ, về kỷ luật, thực hiện quy chế, đạo đức ứng xử,... đều được KTNN khu vực IV làm nghiêm túc, do đó đây là một thuận lợi quan trọng, là một trong những nhân tố tạo lên số thu tương đối lớn và ổn định của khu vực.
Thứ hai là môi trường thu, do KTNN KV được phân công thực hiện kiểm toán tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam tương đối là năng động, các tỉnh thành đã giao đất cho các dự án tương đối nhiều, môi trường thu như vậy tạo điều kiện để khu vực tiến hành công tác kiểm toán.
Thứ ba là KTNN KV IV luôn nhận được sự ủng hộ, hỗ trợ của lãnh đạo KTNN, luôn nhận được sự hướng dẫn và những yêu cầu cụ thể đối với công tác quy hoạch, tạo niềm tin trong cán bộ, công chức của đơn vị trong thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ được lãnh đạo KTNN giao. Bên cạnh đó, khu vực cũng nhận được sự phối hợp của các đơn vị tham mưu, như Vụ Tổng hợp, Vụ Pháp chế, Văn phòng KTNN trong công tác chuyên môn, bởi vì ai cũng bỡ ngỡ với nội dung này, trăn trở việc áp dụng các chính sách như thế nào... do đó, đưa ra ý kiến vừa thu được mà không có phản ứng tiêu cực từ đối tượng là điều không dễ.
Tuy nhiên, do tính chất phức tạp của chính sách về quản lý sử dụng đất, thu tiền sử dụng đất nên quá trình thực hiện kiểm toán còn gặp nhiều khó khăn. Ở lĩnh vực này có liên quan đến nhiều đối tượng, do vậy việc thu thập thông tin kiểm toán, xác lập biên bản xác nhận số liệu kiểm toán đôi khi phải thực hiện với những đơn vị khác nhau như: các cơ quan chức năng xác định số phải thu và thực hiện thu nộp ngân sách Nhà nước (Cơ quan Tài Nguyên và Môi trường, Tài chính, Thuế, Kho bạc Nhà nước), các tổ chức, cá nhân được giao đất, xin chuyển mục đích sử dụng đất, nên việc xác lập, chọn đối tượng kiểm toán, xác lập biên bản, thu thập bằng chứng, xác lập BCKT là rất khó.
Thêm nữa, chính sách thu trong lĩnh vực này có nhiều thay đổi và cũng nhiều bất cập. Nhiều chính sách chưa chặt chẽ và nhất quán do đó áp dụng trong từng thời điểm và có những lĩnh vực trong thực tế phát sinh rồi mà chính sách, cơ chế thì chưa điều tiết được. Đó là khó khăn lớn trong quá trình thực hiện, đòi hỏi KTV phải có được thực tiễn, áp dụng được chính sách nhưng phải tạo được sự đồng thuận giữa nội bộ KTNN, các cơ quan kiểm tra, kiểm soát và đối tượng kiểm toán. Điều này là khó khăn và cũng là thách thức cần phải vượt qua thì mới có được số liệu truy thu.
Một khó khăn khác là, KTNN chưa ban hành quy trình riêng, do đó mẫu biểu, hồ sơ kiểm toán chưa phù hợp với lĩnh vực này, đồng thời chúng ta cũng chưa có tổ chức được nhiều cuộc hội thảo như thế này để trao đổi kinh nghiệm trong toàn ngành, việc xác lập cơ sở dữ liệu, hệ thống thông tin trao đổi kinh nghiệm còn rất hạn chế. Thậm chí việc bảo vệ KTV thực hiện nhiệm vụ này cũng còn có những hạn chế nhất định. Ví dụ: khi KTV đưa ra số liệu truy thu rất lớn. Nhưng có thể đứng sau lưng đối tượng này một thế lực nào đó và đôi khi các đối tượng sẵn sàng làm mọi cách để KTNN không được "sờ" đến tài liệu, sổ sách, dự án của họ, không đưa ra số kiến nghị hoặc số kiến nghị phải nhỏ nhất. Tất cả những điều này là khó khăn rất lớn mà mình phải vượt qua. Cũng phải nói rằng, trong nhiều năm qua, KTNN KV IV có hệ thống kiểm soát thực hiện quy tắc, quy trình chặt chẽ, nhưng để bảo vệ chính thức KTV là chúng ta chưa có. Đây có lẽ là một trong những khó khăn cần tìm cách tháo gỡ.
Ngoài ra, trong lĩnh vực này, KTNN chưa có được bộ phận để phối hợp, cung cấp thông tin, giải đáp thắc mắc, hỗ trợ chuyên môn, chuyên sâu hỗ trợ nghề nghiệp cho các KTV khi thực hiện lĩnh vực này. Bởi nếu có được bộ phận này thì khi KTV thực hiện thực tế nếu có những vướng mắc, không phải tự loay hoay mà cùng với các đơn vị liên quan giải quyết, tạo điều kiện tốt hơn cho KTV đi làm thực tế.
* Bằng những kinh nghiệm đã có của đơn vị, xin bà chia sẻ những kinh nghiệm tốt khi thực hiện nội dung này và đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động kiểm toán thu tiền sử dụng đất?
Kết quả kiểm toán thu tiền sử dụng đất đạt được trong những năm qua phần nhiều do đơn vị đã tổ chức khá chu đáo việc chuẩn bị, nghiên cứu về quy trình, phương pháp kiểm toán để áp dụng phù hợp trong điều kiện, nguồn lực của cuộc kiểm toán ngân sách địa phương. Về phương pháp kiểm toán: trên cơ sở kết quả kiểm toán tổng hợp (phân tích, tính toán; So sánh, đối chiếu giữa tổng hợp và chi tiết của các báo cáo do các cơ quan: tài chính, thuế, tài nguyên - môi trường), thực hiện phân tích, rà soát, lựa chọn phương pháp chọn mẫu thích hợp để xác định cụ thể danh mục các hồ sơ thu tiền sử dụng đất, hồ sơ miễn, giảm tiền sử dụng đất để kiểm toán chi tiết. Về thực hiện quy trình kiểm toán. Khâu khảo sát, lập kế hoạch kiểm toán của Đoàn kiểm toán và lập kế hoạch kiểm toán chi tiết của Tổ kiểm toán: chú trọng thu thập thông tin, nghiên cứu những đặc điểm riêng của địa phương được kiểm toán về quy trình thu hồi đất, giao đất; chức năng nhiệm vụ của từng cơ quan chức năng có liên quan; thu thập thông tin cơ bản như: danh mục các dự án (đã có quyết định thu hồi đất để giải phóng mặt bằng; có quyết định giao đất, chuyển từ thuê đất sang giao đất, chuyển mục đích sử dụng đất, các dự án đổi đất lấy cơ sở hạ tầng) và các thông tin của dự án (diện tích, tình hình thực hiện dự án, thời điểm bàn giao đất thực tế, ….); xác định thời kỳ cần thu thập thông tin (thông thường dự án được giao đất được thực hiện trong nhiều năm, nên cần thu thập trong thời kỳ nhất định tùy thuộc thực tế tại địa phương được kiểm toán). Trên cơ sở các thông tin này, thực hiện rà soát, đối chiếu các thông tin trên với tình hình lập bộ hồ sơ và thu tiền sử dụng đất của cơ quan thuế, qua đó đánh giá tổng hợp tình hình quản lý thu tiền sử dụng đất và đánh giá khả năng sai phạm trong chấp hành chính sách, xác định trọng tâm để thực hiện kiểm toán. Khâu thực hiện kiểm toán: Kiểm toán tổng hợp, so sánh, đối chiếu về số lượng dự án, diện tích đất của các dự án đã có đủ điều kiện tính và thu tiền sử dụng đất, Số lượng dự án, diện tích đất trên thực tế đã thu hồi được đất và đã giao đất thực địa, nhưng cơ quan TN&MT chưa thực hiện thủ tục trình cấp có thẩm quyền ban hành quyết định giao đất kịp thời theo quy định để cơ quan thuế có căn cứ pháp lý thu tiền sử dụng đất; Số lượng dự án, diện tích đất chậm thông báo tiền sử dụng đất khi cơ quan TN&MT đã chuyển đầy đủ thông tin địa chính; Tình hình nợ đọng tiền sử dụng đất…Về kiểm toán chi tiết các hồ sơ thu tiền sử dụng đất, chú trọng các nội dung: hồ sơ pháp lý; mốc thời gian để xác định cụ thể các văn bản pháp quy áp dụng đối với hồ sơ thu tiền sử dụng đất; các yếu tố tính tiền sử dụng đất của cơ quan thuế (đơn giá đất, diện tích, tiền bồi thường được khấu trừ) và các căn cứ pháp lý cơ quan thuế xác định các yếu tố này (quy định pháp luật và tài liệu làm căn cứ xác định); điều kiện miễn, giảm tiền sử dụng đất; chú ý các vấn đề có liên quan, như: thời điểm nộp đủ hồ sơ hợp lệ, thời điểm nộp tiền, phương thức nộp tiền (một lần, nhiều lần, hay nợ tiền sử dụng đất)… để áp dụng các điều khoản bổ sung theo quy định của chế độ thu tiền sử dụng đất.
Để nâng cao chất lượng hoạt động kiểm toán thu tiền sử dụng đất, qua hoạt động thực tiễn của đơn vị, tôi cũng xin chia sẻ một vài giải pháp. Cần tăng cường hơn nữa kỷ luật kỷ cương trong quá trình kiểm toán, và đối tượng kiểm toán khi truy thu hàng trăm tỷ họ sẵn sàng "mua", nên việc tăng cường kỷ luật, kỷ cương, thực hiện quy chế cho KTV là cần thiết, phải được xem trọng như là việc tăng cường trình độ, chuyên môn, bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, KTV. Hai việc này cần phải làm đồng hành, song song với nhau.
KTNN cần ban hành quy trình mẫu biểu hồ sơ phù hợp, tăng cường kiểm toán chuyên đề về nọi dung này, tách thu tiền sử dụng đất ra khỏi lĩnh vực thu ngân sách trong KT BCTC đơn thuần, như vậy sẽ có thời gian và nhân lực để làm sâu hơn.
Những công tác cụ thể như hoàn thiện phương thức thực hiện kiểm toán như thế nào, chú trọng các phương pháp gì cũng cần được hướng dẫn cụ thể, bởi trên thực tế ở mặt này chúng ta còn nhiều hạn chế. Ví dụ như phương pháp điều tra thực địa, phỏng vấn bị hạn chế. Nếu như trực tiếp phỏng vấn các đối tượng lại vi phạm vào quy chế và việc cho tiếp xúc chúng ta lại không kiểm soát được, bởi nếu phát sinh tiêu cực, ai sẽ là người ngăn ngừa. Nâng cao, hoàn thiện các phương pháp, biện pháp sao cho khi thực hiện phương pháp này vừa kiểm tra, kiểm soát được, vừa tăng cường chất lượng kiểm toán, ngăn ngừa được các biểu hiện tiêu cực. Thời gian gần nhất, cần tăng cường kiểm toán chuyên đề như vậy sẽ một phần khắc phục được những khó khăn còn tồn tại.
Quan trọng nhất vẫn là việc xây dựng đội ngũ KTV vừa có tâm có trình độ chuyên môn đủ đáp ứng nhiệm vụ. Với KTNN KV IV, thời gian đầu chỉ có 2 người làm được công tác này, sau nâng lên 5 người và hiện nay thực sự đánh giá đúng chỉ có khoảng 10 người làm được kiểm toán thu sử dụng đất. Con số này rất hạn hẹp và rất dễ dẫn đến sự chuyên quyền độc quyền trong lĩnh vực này là không tốt. Vì vậy tăng cường trao đổi học tập kinh nghiệm, hướng dẫn chuyên sâu, bồi dưỡng nghiệp vụ cho các KTV nói chung để họ có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ.
* Được biết, trong thời gian tới, KTNN sẽ đẩy mạnh việc triển khai các cuộc kiểm toán chuyên đề nói chung và kiểm toán chuyên đề về nội dung thu sử dụng đất. Vậy KTNN KV IV có những kế hoạch gì cho nội dung này?
- Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Tổng KTNN, trong tháng 9 vừa rồi, khu vực cũng đã thay đổi một phần kế hoạch kiểm toán của mình. Và thực tế là, ngoài các số liệu về truy thu sử dụng đất trong các dự án trong các cuộc kiểm toán ngân sách, kế hoạch kiểm toán năm 2011, khu vực có làm cuộc kiểm toán chuyên đề không riêng về đất đai nhưng có sử dụng và quản lý sở hữu nhà, trong đó có lĩnh vực về đất. Sang năm 2012, thực hiện chỉ đạo thay đổi một số nội dung kiểm toán liên quan, khu vực cũng xây dựng 02 chuyên đề, trong đó có 01 chuyên đề về quản lý sử dụng tài nguyên đất có liên quan ở mọi lĩnh vực ở các tỉnh Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa-Vũng Tàu và một chuyên đề về giao đất, triển khai thực hiện dự án; bán, chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản hình thành từ dự án trên địa bàn quận 7, quận 8 và huyện Bình Chánh TP. Hồ Chí Minh giai đoạn 2001-2006...
Trân trọng cảm ơn bà!
Lê Phương Vân (thực hiện)