Thứ sáu, 19/9/2025

Điện thoại (024) 6287 3463

Đường dây nóng (024) 6287 3463

Liên hệ quảng cáo (+84)915.632.345

Thứ sáu, 19/9/2025
Share on Facebook
Copy to Clipboard

VẬN DỤNG KINH NGHIỆM KIỂM TOÁN DỰ ÁN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI VÀO VIỆT NAM

Trên thế giới, đa số các nước sử dụng cơ quan kiểm toán tối cao để kiểm tra đánh giá tính đúng đắn, sát thực và khả thi của dự toán ngân sách nhà nước (NSNN) hàng năm trước khi trình Quốc hội phê chuẩn.

 

Vận dụng kinh nghiệm Kiểm toán dự án ngân sách nhà nước của một số quốc gia trên thế giới vào Việt Nam

 

Việc tham gia của cơ quan KTNN trong việc thẩm tra dự toán ở mỗi nước có hình thức và mức độ khác nhau, nhưng nhìn chung đều là đưa ra ý kiến đánh giá phản biện về dự toán NSNN do Chính phủ trình làm cơ sở cho Quốc hội thảo luận và quyết định dự toán NSNN. Cơ quan KTNN với chức năng của mình, xem xét tính hợp lý, khả thi của dự án ngân sách do các cơ quan của Chính phủ soạn thảo trước khi đệ trình Quốc hội. Cơ quan này sẽ cung cấp những thông tin đánh giá mang tính ngược chiều về mục tiêu, tính tiết kiệm, hiệu quả của dự toán NSNN. Có thể đơn cử việc kiểm toán dự toán của KTNN Hung-ga-ry và Kiểm toán cộng hoà Liên bang Đức làm ví dụ.

KTNN Hung-ga-ry có nhiệm vụ thực hiện thẩm định dự toán NSNN do Bộ Tài chính gửi đến (dự toán được tổng hợp trên cơ sở dự toán ngân sách của các bộ, ngành). Khi thực hiện thẩm định, các bộ phận chuyên môn của KTNN Hung-ga-ry làm việc trực tiếp với các bộ, ngành để xem xét tính phù hợp của việc lập dự toán với các nội dung trong Thông tư hướng dẫn của Bộ Tài chính.

KTNN Hung-ga-ry chỉ làm việc trực tiếp với Bộ Tài chính về những nội dung chưa đạt được sự đồng thuận giữa bản thân hai cơ quan trong dự toán của từng bộ, ngành mà không tham gia vào các buổi làm việc giữa Bộ Tài chính với từng bộ, ngành về nội dung dự toán ngân sách của từng bộ, ngành đó.

Thực hiện thẩm định dự toán NSNN, KTNN Hung-ga-ry chỉ kiểm tra tính tuân thủ của các bộ, ngành về các nội dung trong Thông tư hướng dẫn của Bộ Tài chính chứ không đánh giá về tính hợp lý của các nội dung trong Thông tư này. Đồng thời, KTNN không đánh giá về các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô như: lạm phát, tăng trưởng, bội chi ngân sách cũng như các chính sách điều hành của Chính phủ.

Đại diện KTNN Hung-ga-ry tham gia tất cả các cuộc họp về dự toán NSNN của Uỷ ban Ngân sách, Tài chính và Kiểm toán của Quốc hội.

Trong phiên họp toàn thể của Quốc hội để thông qua dự toán NSNN, Chủ tịch KTNN Hung-ga-ry được phát biểu ý kiến của mình về dự toán NSNN.

Hiện tại, Hung-ga-ry chưa có văn bản pháp lý nào quy định về mối quan hệ giữa Bộ Tài chính và KTNN trong quá trình lập và thẩm định dự toán NSNN. Tuy nhiên, mối quan hệ này được hình thành trong quá trình vận hành từ nhiều năm nay đã mang lại lợi ích cho cả hai bên nên vẫn được duy trì như một nguyên tắc bất thành văn.

KTNN Hung-ga-ry tham gia quá trình lập dự toán NSNN

Tháng 6 hàng năm, Bộ Tài chính Hung-ga-ry ban thành Thông tư hướng dẫn các bộ, ngành trung ương lập dự toán ngân sách. Nội dung của Thông tư ghi rõ chiến lược kinh tế vĩ mô, chương trình cải cách kinh tế của Chính phủ và hướng dẫn các nội dung của công tác lập dự toán năm ngân sách tới. Thông tư này được gửi đến các bộ, ngành và đồng thời gửi KTNN Hung-ga-ry.

Các Bộ, ngành căn cứ Thông tư hướng dẫn của Bộ Tài chính và tình hình thực tế của đơn vị, tiến hành lập dự toán ngân sách năm và chỉ gửi bản dự toán này đến Bộ Tài chính, không phải gửi cho cơ quan KTNN. Trên cơ sở dự toán của các bộ, ngành gửi đến, Bộ Tài chính tiến hành tổng hợp thành dự toán NSNN và gửi bản dự toán này cho cơ quan KTNN.

Sau khi nhận được bản dự toán NSNN do Bộ Tài chính gửi đến, các bộ phận chuyên môn của KTNN Hung-ga-ry sẽ thẩm định dự toán của các đơn vị do bộ phận mình chịu trách nhiệm kiểm toán hàng năm. Kết quả thẩm định dự toán NSNN của cơ quan KTNN sẽ được gửi cho Bộ Tài chính.

Bộ Tài chính sau khi xem xét các nội dung về kết quả thẩm định dự toán NSNN của KTNN sẽ có văn bản trả lời hoặc tổ chức các buổi làm việc giữa lãnh đạo Bộ với lãnh đạo KTNN Hung-ga-ry để tìm kiếm sự đồng thuận về những vấn đề cơ bản trước khi trình Chính phủ vào tháng 10 hàng năm.

Trong phiên họp toàn thể của Quốc hội để thông qua Dự toán NSNN, Bộ trưởng Bộ Tài chính và Chủ tịch KTNN Hung-ga-ry đều có bài phát biểu trước Quốc hội. Thực tế cho thấy, các đại biểu Quốc hội rất quan tâm đến các ý kiến của KTNN Hung-ga-ry về dự toán NSNN. Do trước khi kết thúc quá trình thẩm định dự toán NSNN, lãnh đạo hai cơ quan đã có những trao đổi về từng nội dung chưa đồng thuận nên thông thường các ý kiến của KTNN Hung-ga-ry về dự toán được trình bày trước Quốc hội không có sự trái ngược với ý kiến của Bộ Tài chính.

Tại Cộng hoà Liên bang Đức, KTNN là cơ quan kiểm tra tài chính độc lập, chỉ tuân theo pháp luật. Địa vị pháp lý và những nhiệm vụ cơ bản của KTNN Liên bang Đức được đảm bảo bằng Hiến pháp và đạo luật KTNN Liên bang. Một trong những chức năng của KTNN Liên bang là tham gia vào công tác lập kế hoạch ngân sách hàng năm với tư cách là người tư vấn quan trọng. Bằng kinh nghiệm kiểm toán của mình, KTNN Liên bang tư vấn cho Quốc hội liên bang, Bộ Tài chính và các bộ của Liên bang về dự toán NSNN.

Khi Chính phủ lập dự toán ngân sách, KTNN Liên bang tham gia các cuộc đàm phán ngân sách cùng với các bộ, ngành. Trong quá trình Quốc hội thảo luận, thông qua dự toán ngân sách, KTNN tham gia vào các buổi làm việc giữa các đại biểu Quốc hội thuộc Uỷ ban Ngân sách và các bộ, ngành; tham gia các cuộc họp thảo luận về ngân sách trong Uỷ ban Ngân sách. Trên cơ sở đó, KTNN Liên bang tư vấn cho Quốc hội và Chính phủ liên bang về các vấn đề liên quan đến dự toán ngân sách.

Trong quá trình thẩm tra dự toán, KTNN Liên bang tự coi là người cung cấp dịch vụ tư vấn cho Quốc hội khi xem xét dự toán. KTNN Liên bang không đóng góp ý kiến về toàn bộ các con số trong dự toán ngân sách mà chỉ có ý kiến đối với những con số dự toán mà KTNN Liên bang cho rằng có những rủi ro ở đó (quá cao hay quá thấp, cơ sở xây dựng chưa đầy đủ...). Các kiến nghị do KTNN Liên bang đưa ra gắn với khoản mục dự toán cụ thể. Các bộ, ngành có trách nhiệm phải giải trình rõ các khoản mục dự toán cụ thể. Các Bộ, ngành có trách nhiệm phải giải trình rõ các khoản chi cho KTNN Liên bang. Những ý kiến về dự toán ngân sách chưa thống nhất giữa KTNN Liên bang và đơn vị được báo cáo cho Uỷ ban Ngân sách.

Việc thẩm tra dự toán của KTNN Liên bang cũng được thực hiện khi có đề nghị của Uỷ ban Ngân sách và Uỷ ban Kiểm toán của Quốc hội. Trong quá trình thẩm tra dự toán, KTNN Liên bang không thẩm định những quyết định chính trị nhưng có xem xét các tiền đề và hậu quả của các quyết định.

KTNN Cộng hoà Liên bang Đức tham gia quá trình lập dự toán NSNN

Thông thường, vào tháng 12/N, Bộ Tài chính ban hành Thông tư gửi các bộ, ngành để hướng dẫn nội dung công tác lập dự toán chi cho năm N+2. Các bộ, ngành căn cứ vào Thông tư này tiến hành lập dự toán cho năm kế hoạch để gửi về Bộ Tài chính và KTNN Liên bang vào cuối tháng 3 hàng năm. Sau khi nhận được bản dự toán chi do các bộ, ngành gửi đến, vào tháng 5 hàng năm các phòng nghiệp vụ của Bộ Tài chính tiến hành các cuộc trao đổi với cán bộ cấp phòng của các bộ, ngành về từng chỉ tiêu trong dự toán chi. Đầu tháng 6 hàng năm có các cuộc trao đổi giữa lãnh đạo cấp Vụ của Bộ Tài chính liên bang và lãnh đạo cấp Vụ của các bộ, ngành. Đến cuối tháng 6, Bộ Tài chính hoàn chỉnh dự toán NSNN gửi Chính phủ. Trong tháng 7, Chính phủ xem xét, hoàn chỉnh dự toán để tháng 8 trình Quốc hội liên bang. Quốc hội sẽ tổ chức thảo luận về dự toán ngân sách và biểu quyết về dự toán NSNN.

Khi lập kế hoạch NSNN, Bộ Tài chính liên bang gửi số kiểm tra dự toán NSNN năm cho các Bộ của Liên bang đồng thời gửi KTNN Liên bang. KTNN Liên bang thẩm định để đưa ra ý kiến về dự toán ngân sách có phù hợp với chức năng nhiệm vụ của từng Bộ trên cơ sở các khoản chi trong dự toán phải đảm bảo nguyên tắc tiết kiệm và hiệu quả. Các cuộc đàm phán về dự thảo kế hoạch ngân sách diễn ra ở 3 cấp: Cấp phòng, cấp Vụ và cấp Bộ. Trong trường hợp giữa Bộ Tài chính và các Bộ có ý kiến bất đồng sẽ trình Chính phủ xem xét quyết định. KTNN Liên bang tham gia đàm phán dự thảo kế hoạch ngân sách với tư cách là người tư vấn, giúp cho Bộ Tài chính và các Bộ liên bang thảo luận dự thảo ngân sách đạt kết quả cao trước khi tiến hành vòng đàm phán tiếp theo.

Sau khi kế hoạch ngân sách liên bang được Bộ Tài chính lập, KTNN Liên bang sẽ thẩm định tính sát đúng và tính khả thi của dự luật NSNN hàng năm trước khi Chính phủ trình Quốc hội phê chuẩn. KTNN Liên bang tư vấn về dự toán ngân sách cho Quốc hội liên bang thông qua Uỷ ban Ngân sách của Quốc hội. Đối với các công trình, dự án lớn đòi hỏi nguồn kinh phí đầu tư lớn từ ngân sách liên bang, KTNN Liên bang tham gia kiểm toán ở khâu kế hoạch về tính kinh tế, hiệu quả và tiết kiệm của các dự án xây dựng công trình đó trước khi được Quốc hội liên bang thông qua. Trong kế hoạch ngân sách có thể quy định cần giữ bí mật đối với một số khoản chi và việc sử dụng các khoản chi này, Quốc hội liên bang sẽ giao cho một tiểu ban gồm các thành viên tin cẩn của Uỷ ban ngân sách Quốc hội xem xét. KTNN Liên bang sẽ tham gia thẩm định khoản chi cần giữ bí mật trong kế hoạch ngân sách nhưng do Chủ tịch hoặc Phó chủ tịch KTNN Liên bang thực hiện. Trong trường hợp cần thiết Chủ tịch hoặc Phó chủ tịch KTNN có thể chỉ định một thành viên trong số các Uỷ viên Kiểm toán liên bang cùng thảo luận.

Kinh nghiệm cho thấy, việc tham gia của cơ quan KTNN trong việc lập dự toán ở mỗi nước có hình thức và mức độ khác nhau nhưng nhìn chung đều là đưa ra ý kiến đánh giá phản biện về dự toán NSNN do Chính phủ trình làm cơ sở cho Quốc hội thảo luận và quyết định. Cơ quan KTNN có thể chỉ ra những sai lệch của dự toán NSNN so với các nguyên tắc của tính tuân thủ, tính hợp lý, khả thi và tiết kiệm làm cơ sở cho cơ quan quyền lực quyết định, phê duyệt dự toán NSNN.

Từ thực tế về sự tham gia của cơ quan KTNN trong thẩm định dự toán NSNN ở Hung-ga-ry, Cộng hoà Liên bang Đức có thể rút ra những kinh nghiệm như sau:

Thứ nhất, Để kiểm toán dự toán NSNN hiệu quả cần có thời gian thích hợp đủ để thẩm tra dự toán

Dự toán NSNN là văn bản pháp lý phức tạp, chứa đựng nhiều thông tin kinh tế - xã hội quan trọng ảnh hưởng đến việc quản lý, điều hành ngân sách của quốc gia nên đòi hỏi phải được thẩm tra kỹ lưỡng trên nhiều giác độ. Để việc thẩm tra có hiệu quả cần thiết phải có đủ thời gian, kinh nghiệm của Cộng hoà Liên bang Đức cho thấy việc lập dự toán được khởi động từ tháng 12 của năm báo cáo cho nên quá trình lập, thẩm định và quyết định dự toán được kéo dài đủ để thẩm tra dự toán một cách có hiệu quả.

Thứ hai, Kiểm toán dự toán NSNN phải được thực hiện từ các cơ quan đơn vị (bộ, ngành và địa phương) lập dự toán đến các cơ quan tổng hợp dự toán và quyết định dự toán

Thực tế tại các nước cho thấy việc tham gia của KTNN vào quá trình lập dự toán được bắt đầu từ khi các bộ, ngành, địa phương lập dự toán. Việc thực hiện kiểm toán trong quá trình lập dự toán bộ, ngành là cần thiết vì có thể xem xét chi tiết dự toán và cơ sở lập dự toán. Việc kiểm toán không nhất thiết phải trực tiếp tại các bộ, ngành trong quá trình các bộ, ngành lập dự toán mà có thể thực hiện như KTNN Hung-ga-ry tức là trên cơ sở dự toán của Bộ Tài chính, KTNN cử các bộ phận chuyên môn thẩm định dự toán của các bộ, ngành thuộc lĩnh vực kiểm toán hàng năm của bộ phận đó.

Thứ ba, Để kiểm toán dự toán NSNN có hiệu quả, KTNN thực hiện đánh giá một cách độc lập về dự toán NSNN.

Tài liệu về dự toán NSNN không chỉ chứa đựng những vấn đề chính trị, kinh tế chủ yếu của một quốc gia mà còn là những tài liệu mang tính nghiệp vụ cao đòi hỏi phải được kiểm tra, xem xét kỹ lưỡng trước khi quyết định. Nguồn lực NSNN đòi hỏi phải được phân bổ để đáp ứng những mục tiêu đã đề ra, hạn chế tình trạng lạm dụng trong việc phân bổ ngân sách. Để thẩm định dự toán một cách có hiệu quả cần phải có một cơ quan độc lập, có kiến thức và nghiệp vụ chuyên môn cao đánh giá toàn bộ diễn biến của quá trình lập dự toán, cơ quan đó phải được bảo đảm tính độc lập trong quá trình đánh giá dự toán. Vì vậy để việc kiểm toán dự toán có hiệu quả thì KTNN phải được bảo đảm tính độc lập và thực hiện đánh giá một cách độc lập về dự toán NSNN.

Thứ tư, KTNN phải có nhiệm vụ giúp Chính phủ, Quốc hội trong việc xem xét quyết định các phương án đầu tư xây dựng các công trình trọng điểm quốc gia

Việc đầu tư xây dựng các công trình trọng điểm quốc gia không chỉ tiêu tốn một lượng lớn tiền của mà còn liên quan đến chiến lược phát triển của mỗi quốc gia. Điều đó đòi hỏi không chỉ được xem xét về mặt kỹ thuật mà còn phải xem xét các khía cạnh về kinh tế, xã hội. Trong điều kiện đó nếu không có một cơ quan độc lập với cơ quan soạn thảo, có đủ năng lực về chuyên môn, tuân theo các chuẩn mực nghề nghiệp xem xét, đánh giá trước khi Chính phủ, Quốc hội, HĐND thảo luận và quyết định có thể sẽ gây những rủi ro cho các quyết định đầu tư. Kinh nghiệm của nhiều nước, nhất là những nước có lịch sử phát triển KTNN lâu đời đều giao cho cơ quan KTNN thực hiện nhiệm vụ này.

Thứ năm, KTNN tham gia với Quốc hội trong việc quyết định các chính sách về tài chính ngân sách, trong quá trình ban hành các văn bản pháp luật liên quan đến tài chính, ngân sách

Đây chính là hoạt động tư vấn của cơ quan KTNN với Quốc hội. Bằng thực tiễn kiểm toán, KTNN có thể phát hiện kịp thời những hạn chế, bất cập trong bản thân các văn bản pháp luật, nhất là những trường hợp luật pháp và chính sách đã lạc hậu, xa rời thực tiễn. Trên cơ sở đó, KTNN kiến nghị với Quốc hội, Chính phủ, các bộ ngành và địa phương hoàn thiện hệ thống pháp luật, các chính sách và chế độ quản lý. Các ý kiến tham gia của KTNN sẽ tạo nên luồng thông tin đa chiều, làm cơ sở cho việc thảo luận và quyết định. Bằng thực tiễn hoạt động kiểm toán của mình, KTNN còn cung cấp các thông tin dữ liệu nhằm phục vụ tốt hơn công tác quản lý NSNN. Ngoài việc cung cấp thông tin cho Quốc hội, Chính phủ, KTNN còn cung cấp cho các cơ quan quản lý những yếu kém bất cập trong quản lý NSNN; những đơn vị vi phạm chính sách, chế độ quản lý NSNN. Trên cơ sở đó, các cơ quan quản lý đề ra các biện pháp quản lý thích hợp nhằm quản lý NSNN tốt hơn.

Ths. Nguyễn Thuận Liên

Tài liệu tham khảo:

Tài liệu Hội thảo “Mối quan hệ giữa Kiểm toán Nhà nước, Ủy ban Kinh tế và Ngân sách của Quốc hội và Bộ Tài chính trong quá trình lập và thẩm định dự toán Ngân sách nhà nước”, Kiểm toán Nhà nước - Dự án GTZ, 2007

Lượt xem: 1

Tạo nền tảng cho kinh tế tăng tốc những tháng cuối năm

(khoahockiemtoan.vn) - Trong những tháng còn lại của năm 2024, kinh tế Việt Nam còn phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức từ biến động địa chính trị trên thị trường thế giới. Vì thế, TS. Trần Thị Hồng Minh, Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM), cho rằng trên những nền tảng đã có, nếu tận dụng tốt cơ hội và duy trì đà tăng trưởng thì Việt Nam có thể hoàn thành mục tiêu tăng trưởng kinh tế.   Những tháng đầu năm đã qua, bà đánh giá như thế nào về thực trạng kinh tế Việt Nam? Kinh tế Việt Nam đã và đang phải đối mặt với những thuận lợi đan xen với khó khăn, thách thức từ bối cảnh quốc tế với những biến động khó lường, phức tạp từ xung đột quân sự, biến động chính trị, bất ổn kéo dài tại một số quốc gia, khu vực. Trong bối cảnh ấy, Việt Nam vẫn đạt những kết quả quan trọng về phát triển kinh tế - xã hội, tháng sau tích cực hơn tháng trước, quý sau tốt hơn quý trước. Theo đó, tổng sản phẩm trong nước (GDP) quý II/2024 tăng trưởng tích cực, với tốc độ tăng ước đạt 6,93% so với cùng kỳ năm trước, chỉ thấp hơn tốc độ tăng 7,99% của quý II/2022 trong các quý II của giai đoạn 2020-2023. GDP 6 tháng đầu năm 2024 tăng 6,42%, chỉ thấp hơn tốc độ tăng 6,58% của sáu tháng đầu năm 2022 trong giai đoạn 2020-2024. Qua 7 tháng đầu năm 2024, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiểm soát khi bình quân 7 tháng năm 2024, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng 4,12% so với cùng kỳ năm trước và lạm phát cơ bản tăng 2,73%. Đáng lưu ý, việc điều chỉnh lương cơ sở đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang từ 01/7/2024 chưa gây áp lực đáng kể đối với diễn biến giá cả trong tháng 7. Việt Nam tiếp tục là điểm sáng của cải cách và hội nhập kinh tế. Các giải pháp cơ cấu lại nền kinh tế, phát triển vùng, cải thiện môi trường kinh doanh, tăng năng suất lao động, phát triển các mô hình kinh tế mới (kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn) đã giúp thúc đẩy các ngành kinh tế tăng trưởng. Chẳng hạn, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp 7 tháng năm 2024 ước tính tăng 8,5% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số Nhà quản trị mua hàng (PMI) tháng 7 tiếp tục duy trì ở mức 54,7, bằng với tháng trước đó. Du lịch cũng có sự phục hồi tích cực khi khách quốc tế đến nước ta đạt gần 10 triệu lượt người, còn số khách du lịch trong nước cũng đạt 79,5 triệu lượt. Hoạt động kinh tế đối ngoại diễn ra sôi động. Tổng vốn đăng ký cấp mới, điều chỉnh và góp vốn mua cổ phần, mua phần vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài đạt hơn 18 tỷ USD trong 7 tháng đầu năm, tăng 10,9% so với cùng kỳ năm 2023. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện trong 7 tháng đầu năm đạt 12,55 tỷ USD, tăng 8,4%. Điều này cho thấy các nhà đầu tư nước ngoài duy trì niềm tin và sự lạc quan với thị trường Việt Nam. Bên cạnh đó, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa đạt 440,45 tỷ USD, tăng 17,2% trong 7 tháng năm 2024, cán cân thương mại hàng hóa xuất siêu 14,53 tỷ USD. Hơn nữa, khu vực kinh tế trong nước đã đạt tăng trưởng xuất khẩu cao hơn so với khu vực đầu tư nước ngoài, cho thấy năng lực thích ứng và tận dụng cơ hội của cộng đồng doanh nghiệp trong nước. Cùng những kết quả đạt được, xin bà cho biết cụ thể hơn về những khó khăn và thách thức từ bên ngoài và nội tại nền kinh tế? Triển vọng kinh tế thế giới còn nhiều khó khăn, bất định. Một số nền kinh tế chủ chốt giữ lãi suất điều hành ở mức cao nhằm kiềm chế lạm phát. Cạnh tranh chiến lược về khoa học, công nghệ, thương mại giữa các nền kinh tế lớn, đặc biệt là giữa Mỹ và Trung Quốc, vẫn diễn ra gay gắt, phức tạp. Thiên tai, bão lũ, biến đổi khí hậu tiềm ẩn rủi ro tác động đến nguồn cung và giá cả lương thực, hàng hóa thế giới… Nhiều thị trường quốc tế đã gia tăng quy định nhằm thúc đẩy phát triển bền vững, phát triển các chuỗi giá trị giảm phát thải các-bon. Không ít thị trường gia tăng các biện pháp phòng vệ đối với hàng hóa nhập khẩu. Theo đó, khả năng thâm nhập của hàng Việt Nam xuất khẩu cũng bị ảnh hưởng. Việt Nam cũng cần lưu tâm hơn ở một số lĩnh vực, quy định trong nước. Chẳng hạn, cải cách môi trường kinh doanh chưa tương xứng với những kỳ vọng đặt ra, giải ngân tín dụng tương đối chậm; chi phí của một số hàng hóa, dịch vụ đầu vào chịu áp lực tăng tạo áp lực lên lạm phát. Đáng lưu ý, tác động từ tăng lương cơ sở và tăng lương tối thiểu vùng có thể gây ra lạm phát “chi phí đẩy” nếu không theo dõi, đánh giá sát và có giải pháp kịp thời, đồng bộ. Bên cạnh đó, số lượng doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường tăng nhanh hơn số doanh nghiệp thành lập mới trong 7 tháng đầu năm. Trong khi đó, dù đã có nhiều giải pháp chính sách, năng suất lao động chưa được cải thiện ở mức tương xứng. Khả năng kết nối giữa khối doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) còn chậm được cải thiện, qua đó ảnh hưởng đến khả năng đóng góp và hưởng lợi từ xuất khẩu của các doanh nghiệp trong nước. Nhận thức và năng lực chuyển đổi của doanh nghiệp để thích ứng với các xu hướng mới như chuyển đổi số, chuyển đổi xanh còn tương đối hạn chế. Đâu sẽ là nền tảng để nền kinh tế Việt Nam chống chịu với những khó khăn nêu trên, thưa bà? Những kết quả khả quan về kinh tế - xã hội những tháng đầu năm là cơ sở để Chính phủ và cộng đồng doanh nghiệp gia tăng nỗ lực hơn trong các tháng cuối năm. Cần tiếp tục duy trì khung chính sách bài bản về nền tảng ổn định kinh tế vĩ mô, nỗ lực cải cách thể chế kinh tế để mở rộng không gian phát triển cho cộng đồng doanh nghiệp, cải thiện năng suất lao động, bảo đảm các cân đối lớn và bảo đảm an sinh xã hội. Cần lưu ý, Việt Nam cũng đã có những nền tảng quan trọng từ “đổi mới tư duy”. Chính phủ đã quyết liệt chỉ đạo tháo gỡ không ít rào cản về mặt thể chế, chính sách nhằm mở rộng không gian kinh tế, giảm chi phí không cần thiết cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Các quy hoạch được phê duyệt đã lồng ghép những tư duy mới, gắn với phát triển các mô hình kinh tế mới như kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn... Chuyển đổi số, chuyển đổi xanh có sự gắn kết tương hỗ với nhau và đều ưu tiên thực hiện khẩn trương. Nhờ đó, Việt Nam đang được cộng đồng quốc tế đánh giá cao về tư duy cải cách. Xin thông tin thêm, với vai trò đại diện của Việt Nam (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) tại Ủy ban Kinh tế APEC, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương đang chủ trì, phối hợp với các đối tác xây dựng chương trình cải cách cơ cấu mới cho APEC giai đoạn 2026-2030. Trên nền tảng ấy, nếu tận dụng tốt cơ hội từ đà phục hồi của kinh tế thế giới và theo dõi, xử lý hiệu quả các khó khăn, bất định từ bên ngoài, Việt Nam có thể hoàn thành vượt mức mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2024. Bà khuyến nghị như thế nào để nền kinh tế nước ta tiếp tục có những bước phát triển hiệu quả trong thời gian tới? Việt Nam cần quyết liệt hơn trong cải cách thể chế kinh tế, qua đó giúp phát huy hiệu quả tối đa nội lực của nền kinh tế, để nền kinh tế vươn mình tận dụng những thời cơ phát triển mới. Cần nhấn mạnh, thể chế chính là một nguồn lực, thậm chí là “chìa khóa” quan trọng. Việt Nam cần cân nhắc một số định hướng chính sách nhằm “làm mới” động lực cải cách thể chế, tạo thuận lợi và tăng giá trị cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Chẳng hạn như đẩy nhanh cải cách môi trường kinh doanh, đơn giản hóa các điều kiện kinh doanh và thủ tục hành chính; hoàn thiện thể chế liên kết vùng, nhằm tạo động lực cho liên kết giữa các địa phương và doanh nghiệp ở các địa phương theo tư duy chuỗi giá trị để “cùng đổi mới, cùng liên kết, cùng hợp tác, cùng thắng, cùng phát triển”. Song song với đó là rà soát, hoàn thiện khung chính sách để mở rộng không gian phát triển cho các mô hình kinh tế mới như kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế ban đêm, kinh tế sáng tạo… Cùng với đó cần tập trung tháo gỡ các khó khăn về tiếp cận các thị trường xuất khẩu, đẩy nhanh tạo thuận lợi thương mại, khuyến khích đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, tận dụng tối đa hiệu quả các hiệp định thương mại tự do (FTA), tìm kiếm và khai thác hiệu quả các thị trường ngách, kể cả thông qua nền tảng số hóa và thử nghiệm phát triển khu thương mại tự do. Các cơ quan quản lý cần nhanh chóng hoàn thiện và triển khai hiệu quả khung chính sách cải thiện năng suất lao động, gắn với tăng kỹ năng và chuyển đổi kỹ năng cho người lao động để thích ứng với các mô hình kinh tế mới; đồng thời thúc đẩy chuyển giao công nghệ từ doanh nghiệp FDI sang khu vực doanh nghiệp trong nước. Bên cạnh đó, cần tiếp tục theo dõi, đánh giá, dự báo sát tình hình kinh tế thế giới và trong nước với các kịch bản đủ chi tiết, tính đến những rủi ro chiến tranh thương mại, gia tăng phòng vệ ở các thị trường xuất khẩu, xu hướng dịch chuyển đầu tư nước ngoài... để kiến nghị phương án, giải pháp phù hợp, qua đó củng cố ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn và tạo nền tảng quan trọng cho cải cách, hội nhập và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Xin trân trọng cảm ơn bà! Hương Dịu (thực hiện)

Thị trường tài chính có thể dễ thở hơn trong năm 2024

TS. Nguyễn Minh Cường, Chuyên gia kinh tế, nguyên Chuyên gia kinh tế trưởng quốc gia ở Việt Nam của Ngân hàng phát triển châu Á (ADB) cho rằng, thị trường tài chính toàn cầu nói chung và thị trường tài chính Việt Nam có thể “dễ thở” hơn trong năm 2024, trong đó, thị trường trái phiếu doanh nghiệp có thể sẽ ghi nhận một số kết quả tích cực từ việc thực hiện cải cách trong thời gian qua. TS. Nguyễn Minh Cường, Chuyên gia kinh tế Sau năm 2022 với nhiều chấn động trong lĩnh vực ngân hàng và thị trường trái phiếu doanh nghiệp, thị trường tài chính Việt Nam năm 2023 có những điểm nào đáng chú ý, thưa ông? Thị trường tài chính là một phần quan trọng của nền kinh tế, chịu ảnh hưởng bởi biến động của nền kinh tế và tác động trở lại nền kinh tế. Thị trường tài chính năm 2023 phản ánh đúng diễn biến của nền kinh tế. Có thể thấy rõ, từ cuối năm 2022 và cả năm 2023 đã xuất hiện sự khác biệt về cách thức điều hành chính sách tài chính của các nước. Cụ thể, về chính sách tiền tệ, Việt Nam và một số nước châu Á có xu hướng đi ngược với các nước phát triển. Sự khác biệt về định hướng điều hành chính sách tiền tệ đã tạo ra khoảng cách lớn về lãi suất/ tỷ giá giữa các đồng tiền, từ đó tác động ngược lại với toàn bộ thị trường tài chính. Đặc biệt, đồng VND và nhiều đồng tiền khác giảm giá so với USD.  Riêng với Việt Nam, thị trường trái phiếu doanh nghiệp có diễn biến bất ổn trong năm qua khiến kênh huy động vốn quan trọng này của thị trường tài chính bị gián đoạn. Đặc biệt, trái phiếu doanh nghiệp bất động sản phát hành riêng lẻ gần như đóng băng sau sự sôi động của năm 2022. Sự gián đoạn của thị trường trái phiếu doanh nghiệp gây áp lực gia tăng cho thị trường ngân hàng trong việc cung cấp vốn cho doanh nghiệp. Đáng chú ý, tỷ lệ tín dụng/GDP của Việt Nam đã ở mức gần 130% - con số quá lớn theo cảnh báo của WB và ADB - có thể gây rủi ro về kỳ hạn do nguồn vốn huy động ngắn hạn từ kênh tín dụng lại phải cung cấp vốn trung và dài hạn. Trong khi đó, nợ xấu của hệ thống ngân hàng đang tăng, đã có lúc tác động bất lợi đến thanh khoản khiến dư địa giảm lãi suất không còn. Sau giai đoạn thiếu hụt thanh khoản cuối năm 2022, hệ thống ngân hàng lại ở tình trạng thừa thanh khoản do nền kinh tế không hấp thụ được vốn, Ngân hàng Nhà nước phải dùng một số biện pháp nghiệp vụ để hút tiền về trong hệ thống, giảm sức ép chênh lệch lãi suất giữa VND và USD. Nhìn chung, hệ thống ngân hàng và chính sách tiền tệ nói chung đã hầu như hết dư địa, nhưng lại được trao cho quá nhiều nhiệm vụ và đang rơi vào tình trạng quá tải. Thị trường trái phiếu doanh nghiệp vẫn chưa thật sự phục hồi sau các vụ việc trong năm 2022 không hỗ trợ được nhiều cho nền kinh tế dẫn đến sức ép lại càng dồn lên hệ thống ngân hàng. Bên cạnh đó, chính sách tài khóa vẫn còn dư địa thì lại quá rụt rè. Việc cắt giảm thuế VAT từ 10% xuống 8% thực hiện nhỏ giọt 6 tháng một lần, và không phải với tất cả các mặt hàng, tạo ra sức ép cho bộ máy thực hiện, làm chậm tính hiệu quả của việc cắt giảm VAT. Nguồn vốn đầu tư công giải ngân - được coi là kênh hỗ trợ nguồn lực tốt khi thị trường tín dụng gặp khó - lại giải ngân chậm, không hiệu quả. Có thể khái quát bức tranh tổng thể thị trường tài chính năm 2023 là sự tắc nghẽn về vốn rất lớn trong hệ thống ngân hàng, cho dù lãi suất đã giảm vì sức hấp thụ vốn của nền kinh tế yếu. Trong khi đó, yếu tố kích thích để khai thông vốn là chính sách tài khóa, và đầu tư công lại vận hành quá rụt rè và không hiệu quả. Nhiều giải pháp đã được thực thi để giải quyết các ách tắc về vốn cho nền kinh tế trong năm qua. Theo ông, các giải pháp đó có hiệu quả như thế nào? Với thực tế như vậy, một giải pháp được thực thi là tiếp tục cải cách để tăng hiệu quả hoạt động của thị trường. Trong đó, giải pháp nổi bật đã thực hiện là cải cách quy định với thị trường trái phiếu doanh nghiệp, bằng việc ban hành nghị định 65/2022/NĐ-CP về trái phiếu doanh nghiệp phát hành riêng lẻ. Các nội dung định hướng sửa đổi trong văn bản đó là rất tốt/phù hợp/hỗ trợ cho sự phát triển bền vững của thị trường, nổi bật là quy định về đánh giá xếp hạng tín nhiệm với doanh nghiệp phát hành và tăng điều kiện với nhà đầu tư cá nhân. Với hệ thống ngân hàng, quy định về tăng cường chất lượng quản trị hệ thống như giảm tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn đã được thực thi cùng với nợ xấu ở mức cao khiến dòng vốn tín dụng vào nền kinh tế bị siết hơn. Do đó, đẩy mạnh cấp vốn cho nền kinh tế đồng thời phải đối phó với các rủi ro hiện hữu về chất lượng tài sản trong hệ thống và rủi ro vĩ mô như lạm phát, tỷ giá là một nhiệm vụ “gần như bất khả thi” với hệ thống ngân hàng. Đến nay, điều may mắn là thị trường tài chính toàn cầu đã “dễ thở” hơn với việc nhiều ngân hàng trung ương thể hiện quan điểm không tiếp tục tăng lãi suất. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là đã hết rủi ro. Do đó, việc tiếp tục đẩy mạnh vốn tín dụng ra thị trường cũng cần cân nhắc và đảm bảo thực hiện các giải pháp kiểm soát rủi ro, tránh gây sức ép lên hệ thống ngân hàng vì sẽ tạo ra các rủi ro hệ thống trong tương lai. Sau những biến động của năm 2022 và năm 2023, theo ông, thị trường tài chính Việt Nam năm 2024 sẽ có những điểm nào đáng chú ý? Thị trường tài chính toàn cầu nói chung và thị trường tài chính Việt Nam có thể “dễ thở” hơn trong năm 2024 bởi gần như các ngân hàng trung ương sẽ không tăng lãi suất. Có thể nói, câu chuyện tăng lãi suất đã qua. Với thị trường ngân hàng Việt Nam, với nền kinh tế phụ thuộc lớn vào tín dụng ngân hàng thì triển vọng tăng trưởng năm 2024 sẽ là yếu tố quan trọng cho tăng trưởng tín dụng ngân hàng. Triển vọng kinh tế thế giới năm 2024 sẽ là phục hồi chậm, thương mại toàn cầu tiếp tục giảm, sẽ tác động đến hoạt động xuất nhập khẩu củaViêt Nam khiến triển vọng kinh doanh của doanh nghiệp sẽ tiếp tục khó khăn, ảnh hưởng đến tăng tín dụng ngân hàng. Ngoài ra, chất lượng tài sản của ngân hàng cũng đang suy giảm với nợ xấu gia tăng, kể cả nợ xấu từ trái phiếu doanh nghiệp, sẽ làm tăng chi phí dự phòng của ngân hàng, và từ đó giảm lợi nhuận ngân hàng. Năm 2024, thị trường trái phiếu doanh nghiệp có thể sẽ ghi nhận một số kết quả tích cực từ việc thực hiện cải cách trong thời gian qua, theo đó, thông tin về doanh nghiệp phát hành được minh bạch hơn, giới đầu tư sẽ “trưởng thành” và có sự chọn lọc hàng hóa tốt hơn. Tuy nhiên, những món nợ trái phiếu được gia hạn trong năm 2023 sẽ là mối lo và sẽ tác động bất lợi cho hoạt động của ngành ngân hàng trong năm 2024. Trân trọng cảm ơn ông! Thúy Hường (thực hiện) (Theo Tạp chí Nghiên cứu Khoa học kiểm toán, tháng 12/2023)

QUYẾT LIỆT THỰC THI CÁC GIẢI PHÁP ĐỂ GIỮ VỮNG ĐÀ TĂNG TRƯỞNG

TS. Cấn Văn Lực, thành viên Hội đồng tư vấn chính sách tài chính – tiền tệ quốc gia, cho rằng kinh tế Việt Nam 6 tháng đầu năm có nhiều điểm sáng bất chấp kinh tế thế giới còn phục hồi chậm và không đồng đều. Dù vậy, nền kinh tế vẫn còn nhiều thách thức, cần các giải pháp điều hành quyết liệt và hiệu quả để giữ đà tăng trưởng trong thời gian tới. Dự báo, tăng trưởng kinh tế Việt Nam 6 tháng cuối năm có khả năng đạt 6,3% đến 6,8% và cả năm có thể đạt 6,3% đến 6,5%.           Ông đánh giá như thế nào về bức tranh kinh tế và hoạt động của các động lực tăng trưởng chủ đạo trong nửa đầu năm nay? Kinh tế Việt Nam trong quý 2 và 6 tháng đầu năm 2024 đạt nhiều kết quả tích cực. Một số động lực tăng trưởng truyền thống cho thấy đà phục hồi khá đồng đều. Tổng kim ngạch xuất - nhập khẩu 6 tháng đầu năm 2024 ước đạt 368,53 tỷ USD, tăng 15,7% so với cùng kỳ năm trước. Thu hút và giải ngân FDI tiếp tục khởi sắc. Trong 6 tháng đầu năm, tổng vốn FDI đăng ký vào Việt Nam ước đạt 15,2 tỷ USD, tăng 13,1% so với cùng kỳ, giải ngân vốn FDI đạt 10,84 tỷ USD, tăng 8,2% so với cùng kỳ năm trước, là mức tăng cao nhất so với cùng kỳ trong vòng 6 năm. Kết quả khả quan này khẳng định niềm tin của nhà đầu tư vào triển vọng tăng trưởng và cơ hội đến từ dịch chuyển chuỗi cung ứng toàn cầu đối với Việt Nam. Tiêu dùng tiếp tục đà phục hồi với tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ trong 6 tháng đầu năm 2024 tăng 8,6% so với cùng kỳ năm trước nhờ lượng khách du lịch tăng mạnh (8,8 triệu lượt khách quốc tế, tăng 58,4% so với cùng kỳ năm 2023 và tăng 4,1% so với cùng kỳ năm 2019). Đà phục hồi tích cực của bán lẻ cùng với tiêu dùng của khu vực nhà nước góp phần đưa tiêu dùng cuối cùng đóng góp cao nhất (64,26%) vào tăng trưởng GDP trong 6 tháng đầu năm. Giải ngân đầu tư công đạt kết quả khả quan dù không đồng đều và còn chậm, đầu tư tư nhân phục hồi. Tổng số vốn giải ngân trong 6 tháng đầu năm ước đạt 244,41 nghìn tỷ đồng, bằng 33,8% kế hoạch năm và tăng 3,5% so với cùng kỳ năm trước. Dù đã đạt kết quả như vậy song diễn biến kinh tế thế giới vẫn chưa thuận lợi, theo ông, kinh tế Việt Nam trong thời gian tới có phải đối mặt với những rủi ro, thách thức nào, thưa ông? Trong thời gian tới, kinh tế Việt Nam vẫn phải đối mặt với một số rủi ro, thách thức chính. Các rủi ro thách thức từ bên ngoài vẫn hiện hữu như: khủng hoảng địa chính trị dai dẳng, khó đoán định đặc biệt xung đột tại Ukraina, Biển Đỏ, Trung Đông...; cạnh tranh chiến lược về thương mại và công nghệ giữa các nước lớn còn phức tạp, làm tăng phân mảnh và bảo hộ thương mại; lạm phát và lãi suất dù giảm song còn cao; rủi ro tài khóa và nợ ở mức cao, khiến kinh tế thế giới phục hồi còn chậm và thiếu bền vững; rủi ro an ninh năng lượng, lương thực và thiên tai, khí hậu cực đoan vẫn thường trực... Bên cạnh đó, một số động lực tăng trưởng truyền thống phục hồi nhưng chưa đồng đều, còn ở mức thấp so với trước dịch và chưa bền vững. Tốc độ tăng tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ (loại trừ yếu tố giá tăng 5,7% chỉ bằng khoảng 66% mức tăng trung bình của cùng kỳ giai đoạn trước dịch 2018-2019 (8,6%); lượng khách du lịch quốc tế tăng mạnh (58,4%) nhưng doanh thu lưu trú - ăn uống và du lịch lữ hành trong 6 tháng đầu năm 2024 chỉ tăng 14,8%, thấp hơn mức trước dịch, cho thấy xu hướng tiêu dùng tiết kiệm của du khách. Tiêu dùng cuối cùng tăng 5,78%, cao hơn cùng kỳ các năm 2020-2023 song vẫn thấp hơn mức trước dịch (6 tháng đầu năm 2019 tăng 7,05%). Đầu tư tư nhân tăng 6,7%, cao hơn mức 2,1% cùng kỳ năm trước, nhưng thấp hơn nhiều mức tăng 17% cùng kỳ giai đoạn trước dịch 2018-2019 và thấp hơn khu vực FDI (10,3%). Mặt khác, hoạt động doanh nghiệp còn nhiều khó khăn dù đã có dấu hiệu khởi sắc: trong 6 tháng đầu năm 2024, số doanh nghiệp gia nhập thị trường đạt gần 120 nghìn doanh nghiệp, cao hơn số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường (110 nghìn doanh nghiệp) là tín hiệu tích cực, tuy nhiên số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn vẫn tăng 18,6% so với cùng kỳ do các vướng mắc về pháp lý chưa được giải quyết kịp thời (đặc biệt là thị trường đất đai, bất động sản); áp lực tài chính (áp lực đáo hạn nợ vay và nợ trái phiếu doanh nghiệp) và chi phí đầu vào vẫn ở mức cao (chi phí logistics tăng, giá năng lượng tăng...). Từ diễn biến như vậy, ông dự báo như thế nào về triển vọng kinh tế Việt Nam trong 6 tháng cuối năm nay? Trong bối cảnh quốc tế như nêu trên cùng với kết quả tăng trưởng khả quan của 6 tháng đầu năm, môi trường pháp lý ngày càng được hoàn thiện, các động lực tăng trưởng (cả truyền thống và mới) được khai thác, phát huy hiệu quả cao hơn; kinh tế vĩ mô tiếp tục duy trì ổn định, các cân đối lớn được bảo đảm, niềm tin của doanh nghiệp và người dân được củng cố; tăng trưởng kinh tế Việt Nam 6 tháng cuối năm có khả năng đạt 6,3% đến 6,8% và cả năm có thể đạt 6,3% đến 6,5% (kịch bản cơ sở), đạt cận trên mục tiêu do Quốc hội và Chính phủ đề ra, hoặc có thể khả quan hơn, khoảng 6,5% đến 6,7% (kịch bản tích cực). Trong đó, tăng lương cơ sở có thể khiến GDP tăng thêm 0,3 điểm % đến 0,5 điểm %, lạm phát tăng thêm 0,2 điểm % đến 0,3 điểm % trong năm 2024 và có thể cao hơn trong năm 2025-2026. Về lạm phát, áp lực lạm phát trong 6 tháng cuối năm 2024 dự báo sẽ ở mức cao hơn cùng kỳ năm 2023 do yếu tố chi phí đẩy và cầu kéo. Về chi phí đẩy, giá năng lượng, giá nguyên vật liệu, chi phí logistics còn ở mức cao; việc điều chỉnh giá các mặt hàng do Nhà nước quản lý như tiền điện, học phí, tăng lương cơ sở, lương tối thiểu vùng theo lộ trình từ ngày 01/7/2024… Về cầu kéo, cung tiền dự báo tăng cao hơn cùng với đà phục hồi kinh tế. Để đạt kết quả tăng trưởng cao nhất, cần thực hiện những giải pháp gì, thưa ông? Để đạt được mục tiêu tăng trưởng, kiểm soát lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô năm 2024 như nêu trên, cần chú trọng một số giải pháp. Trước hết, cần đẩy mạnh hoàn thiện thể chế, tạo môi trường thuận lợi cho thúc đẩy tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô, tập trung vào: quyết liệt ban hành và thực thi hiệu quả hơn các chính sách, giải pháp tháo gỡ các vướng mắc (nhất là về pháp lý, định giá đất, hoàn thuế giá trị gia tăng, tiếp cận vốn, phát triển nhà ở xã hội, phòng cháy chữa cháy...); triển khai có hiệu quả Nghị định 73/2023/NĐ-CP về khuyến khích, bảo vệ cán bộ năng động, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung; kịp thời ban hành các Nghị định, Thông tư hướng dẫn Luật Đất đai 2024, Luật Nhà ở 2023, Luật Kinh doanh bất động sản 2023, Luật Các tổ chức tín dụng 2024... chính thức có hiệu lực từ 01/8/2024, cũng như các đạo luật vừa được Quốc hội thông qua nhằm đảm bảo nhất quán, đồng bộ và hiệu lực thực thi; sớm ban hành khung pháp lý nhằm tạo điều kiện phát triển kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn và chuyển đổi năng lượng như cơ chế thử nghiệm - Sandbox, cơ chế thí điểm, đề án phát triển thị trường tín chỉ carbon, danh mục phân loại xanh, Quy hoạch điện VIII, cơ chế mua – bán điện trực tiếp (DDPA)... Đồng thời, phát huy các động lực tăng trưởng truyền thống về xuất khẩu, đầu tư - nhất là đầu tư tư nhân, tiêu dùng; khai thác tốt hơn các động lực tăng trưởng mới từ kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, chuyển đổi năng lượng, liên kết vùng...; đẩy nhanh triển khai Quy hoạch điện VIII, cơ chế hỗ trợ các doanh nghiệp FDI khi Việt Nam áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu; quyết liệt cải thiện môi trường đầu tư - kinh doanh, góp phần thu hút, sử dụng hiệu quả vốn đầu tư, thúc đẩy tăng trưởng của các đầu tàu kinh tế như Hà Nội, Cần Thơ, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh cao hơn cả nước và tăng tính lan tỏa với các vùng và cả nước; đẩy mạnh giải ngân đầu tư công, sớm có phương án điều chuyển các cấu phần có tỷ lệ giải ngân thấp và bố trí ngân sách hỗ trợ phát triển các lĩnh vực mới, quan trọng như công nghệ cao, công nghiệp bán dẫn, chuyển đổi xanh, chuyển đổi năng lượng, phát triển thị trường tín chỉ carbon, nhà ở xã hội. Khải Anh

CẤP BÁCH ĐỔI MỚI HOẠT ĐỘNG DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC

Đổi mới doanh nghiệp nhà nước để đáp ứng bối cảnh mới đang là yêu cầu cấp bách đối với sự phát triển của kinh tế Việt Nam. Chuyên gia kinh tế - PGS.TS. Ngô Trí Long còn nhấn mạnh đây là nhiệm vụ chiến lược để đảm bảo sự phát triển và tồn tại của doanh nghiệp nhà nước, tiếp tục nâng cao năng lực cạnh tranh để đóng vai trò trụ cột của nền kinh tế.   Ông đánh giá như thế nào về vai trò của khối doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế nước ta hiện nay? Tới nay, doanh nghiệp nhà nước là lực lượng vật chất quan trọng của kinh tế nhà nước, đóng góp lớn vào phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh quốc phòng, an sinh xã hội, thực hiện các nhiệm vụ chính trị quan trọng do Đảng và Nhà nước giao, thể hiện vai trò nòng cốt trong một số ngành, lĩnh vực và tạo nguồn thu đáng kể cho ngân sách nhà nước, góp phần dẫn dắt, tạo động lực cho khu vực kinh tế ngoài nhà nước phát triển. Đặc biệt, chúng ta có thể thấy rõ trong giai đoạn dịch bệnh COVID-19, vai trò của khu vực doanh nghiệp nhà nước đã được phát huy, thể hiện rất rõ nét và hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao; vừa duy trì hoạt động sản xuất, kinh doanh, góp phần bảo đảm an sinh xã hội, ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế vừa tích cực tham gia phòng, chống dịch bệnh với tinh thần trách nhiệm cao, phản ứng chính sách kịp thời, bám sát thực tiễn để tham mưu, đề xuất với Chính phủ tháo gỡ các ách tắc, vướng mắc cho doanh nghiệp, góp phần giải quyết khó khăn cho đất nước. Bối cảnh kinh tế trong và ngoài nước đã và đang có những tác động ra sao tới doanh nghiệp nhà nước, thưa ông? Kinh tế nước ta đang có sự chuyển mình nhanh chóng từ nền kinh tế truyền thống sang nền kinh tế số, Chính phủ đang thực hiện các chính sách cải cách mạnh mẽ để thúc đẩy nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và quản lý tốt hơn các doanh nghiệp nhà nước… Hơn nữa, bối cảnh thế giới còn nhiều bất định với những biến động lớn về địa chính trị, khủng hoảng kinh tế và biến đổi khí hậu… ảnh hưởng sâu sắc đến chuỗi cung ứng và tạo sự cạnh tranh gay gắt.      Quá trình đổi mới và bối cảnh kinh tế như trên đang khiến các doanh nghiệp nhà nước đứng trước nhiều yêu cầu và thách thức để tiếp tục tồn tại và phát triển. Đó là doanh nghiệp nhà nước cần đổi mới sáng tạo, cải thiện năng suất và hiệu quả để cạnh tranh với khu vực tư nhân và thu hút đầu tư. Cùng với đó, cần đổi mới công nghệ, áp dụng công nghệ hiện đại và tự động hóa trong sản xuất và quản lý để tăng cường hiệu suất. Đặc biệt là phải chuyển đổi số, áp dụng chuyển đổi số trong quản lý và hoạt động kinh doanh để nâng cao khả năng thích ứng và cạnh tranh. Bên cạnh đó, trong bối cảnh thu hút đầu tư nước ngoài, các doanh nghiệp nhà nước phải  tăng tính minh bạch và trách nhiệm giải trình, tăng cường tính minh bạch trong hoạt động tài chính và quản lý. Nghĩa là, cần có hệ thống báo cáo và kiểm soát tài chính minh bạch để xây dựng lòng tin từ cổ đông và công chúng. Khi thị trường quốc tế còn nhiều khó khăn thì các doanh nghiệp nhà nước phải đổi mới mô hình kinh doanh, tìm kiếm các mô hình kinh doanh mới, phù hợp với xu hướng thị trường và nhu cầu khách hàng, đồng thời đáp ứng các yêu cầu về phát triển bền vững, đảm bảo hoạt động kinh doanh, không chỉ mang lại lợi nhuận mà còn có trách nhiệm với môi trường và xã hội để thích ứng với các yêu cầu ngày càng cao của thị trường xuất nhập khẩu hiện nay. Theo ông, đâu là những khó khăn của các doanh nghiệp nhà nước trong quá trình thực hiện những yêu cầu trên? Vấn đề dễ nhận thấy nhất là khó khăn trong quản lý đổi mới do việc thay đổi thói quen làm việc và văn hóa tổ chức có thể gặp nhiều trở ngại từ phía lãnh đạo và nhân viên. Có thể những nhóm lợi ích trong doanh nghiệp nhà nước không đồng tình với những thay đổi hoặc gây khó khăn cho quá trình đổi mới. Nhiều doanh nghiệp nhà nước vẫn gặp phải vấn đề về quản lý và điều hành, dẫn đến lãng phí nguồn lực, hoạt động không hiệu quả, nhất là vấn đề nguồn nhân lực khi áp dụng những công nghệ mới. Hơn nữa, do những quy định pháp luật và mô hình kinh doanh nhiều đặc thù, không ít doanh nghiệp nhà nước có thể gặp khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn, đặc biệt là trong bối cảnh kinh tế không ổn định. Thiếu nguồn lực đầu tư, nhất là việc thực hiện các chương trình đổi mới cần nguồn vốn lớn, nên nhiều doanh nghiệp nhà nước gặp khó khăn. Hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước còn chịu sự cạnh tranh từ khu vực tư nhân và khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI), trong khi khối doanh nghiệp nhà nước phải chịu áp lực từ sự thay đổi trong chính sách quản lý; nhiều doanh nghiệp còn gặp áp lực từ cổ phần hóa, thoái vốn và tái cấu trúc nên có thể gây ra xáo trộn trong hoạt động. Để khắc phục và đổi mới hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước, xin ông cho biết cần những giải pháp như thế nào? Đổi mới doanh nghiệp nhà nước lâu nay không chỉ là cần thiết, mà còn là một nhiệm vụ chiến lược để đảm bảo sự phát triển và tồn tại của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế hiện đại. Dù một vài năm gần đây, với sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và nỗ lực của các bộ, cơ quan, doanh nghiệp, công tác đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước đã đạt được một số kết quả tích cực. Nhưng còn một số bất cập, hạn chế còn tồn tại nên cần phải có những giải pháp mới và tạo sự đột phá hơn. Nhìn lại việc tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước những năm qua thì thấy công tác này chủ yếu triển khai bề rộng, mới chỉ quan tâm tới việc giảm số lượng các doanh nghiệp nhà nước, chưa đi sâu vào giải quyết mục tiêu chính của tái cơ cấu. Hầu hết doanh nghiệp mà Nhà nước nắm giữ 100% vốn chưa có sự thay đổi về chất, chủ yếu thay đổi về tên gọi, hình thức pháp lý như công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên; các tập đoàn, tổng công ty, công ty mẹ - công ty con còn tồn tại nhiều yếu kém về tài chính, nhân lực, quản lý. Vì thế, công tác này thời gian tới cần xác định rõ ràng vai trò của doanh nghiệp nhà nước, rà soát và xác định định hướng của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế, đảm bảo doanh nghiệp nhà nước hoạt động hiệu quả, không chồng chéo với khu vực kinh tế tư nhân. Đồng thời, cần phân định rõ ngành, nghề mà Nhà nước cần nắm giữ. Phân định rõ những ngành nào Nhà nước cần nắm giữ 100% vốn, ngành nào cần nắm giữ cổ phần chi phối, ngành nào không cần. Thông qua đó, thu hẹp số lượng ngành, nghề, lĩnh vực kinh doanh cần có doanh nghiệp nhà nước. Chúng ta chỉ nên tập trung hoạt động của doanh nghiệp nhà nước vào một số ngành, nghề, lĩnh vực đảm bảo lợi ích kinh tế quốc gia, quốc phòng, an ninh, dịch vụ công ích, kết cấu hạ tầng, khoa học công nghệ cao. Chính phủ cũng cần sớm ban hành đầy đủ các cơ chế, đặc biệt là các cơ chế xác định chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của cơ quan quản lý đại diện vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước, đơn vị đại diện có chức năng đến đâu, có quyền như thế nào cần được xác định và thể chế hóa. Qua đó tối ưu hóa nguồn lực, tập trung vào các lĩnh vực, ngành nghề có lợi thế cạnh tranh, giảm thiểu các hoạt động không hiệu quả. Ngoài ra, cần đẩy nhanh việc xử lý nợ, thoái vốn, hiệu quả, công khai, minh bạch; có cơ chế giám sát, phát hiện, xử lý kịp thời những vi phạm trong quá trình triển khai thực hiện. Tiếp tục đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước theo hướng thực chất và hiệu quả. Việc cơ cấu, sắp xếp, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước phải dựa trên nguyên tắc kinh tế thị trường. Nghiên cứu và sửa đổi những quy định không phù hợp đang cản trở quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, trong đó, trước hết, liên quan đến vấn đề xác định giá trị doanh nghiệp, chọn đối tác chiến lược, bán cổ phần ưu đãi cho người lao động, tăng tính xã hội ngay trong công ty cổ phần. Các doanh nghiệp nhà nước cũng cần tích cực đổi mới công nghệ, bởi đây là yếu tố then chốt để nâng cao hiệu quả hoạt động, cạnh tranh và đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững trong bối cảnh mới. Chính phủ đã có nhiều chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhà nước nâng cao công nghệ, nhưng việc triển khai còn chậm và chưa đồng bộ. Do đó, các doanh nghiệp nhà nước cần tăng cường đầu tư vào nghiên cứu và phát triển (R&D); tìm kiếm cơ hội hợp tác với các doanh nghiệp công nghệ để nâng cao năng lực cạnh tranh… Ngoài ra, các doanh nghiệp nhà nước cần nâng cao năng lực quản lý, đẩy mạnh công tác đào tạo nguồn nhân lực, cũng như đảm bảo minh bạch trong hoạt động, tài chính của doanh nghiệp nhà nước để tạo sự tin tưởng từ cộng đồng. Trước những thách thức về cạnh tranh, các cơ quan quản lý nên khuyến khích các hình thức hợp tác giữa doanh nghiệp nhà nước và khu vực tư nhân để tăng cường hiệu quả đầu tư, chia sẻ rủi ro… Cũng như nên sử dụng các công cụ tiếp thị hiện đại để nâng cao khả năng tiếp cận và nhận diện thương hiệu; tìm kiếm và xây dựng các kênh phân phối mới để tăng trưởng doanh thu. Có thể thấy, đổi mới doanh nghiệp nhà nước không chỉ là nhiệm vụ của riêng các doanh nghiệp mà còn cần sự hỗ trợ từ phía Nhà nước, các tổ chức xã hội và cộng đồng doanh nghiệp. Việc thực hiện các giải pháp trên sẽ giúp doanh nghiệp nhà nước phát triển bền vững, đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế của đất nước. Để thành công trong quá trình đổi mới trong bối cảnh mới cần có sự quyết tâm cao từ Đảng, Nhà nước, Chính phủ và lãnh đạo các doanh nghiệp nhà nước.      Theo Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp, đến nay, cả nước có 671 doanh nghiệp nhà nước bao gồm 6 tập đoàn kinh tế, 53 tổng công ty nhà nước và 19 Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên hoạt động theo mô hình công ty mẹ - con. Trong đó, tuy chỉ chiếm hơn 10% về số lượng, nhưng khối các tập đoàn, tổng công ty, công ty mẹ - con lại có vai trò kinh tế quan trọng, nắm giữ 92% tổng tài sản và 90% tổng vốn chủ sở hữu, 93% tổng doanh thu và 85% tổng đóng góp ngân sách nhà nước của doanh nghiệp nhà nước trên toàn quốc. Lũy kế 9 tháng năm 2024, lợi nhuận trước thuế của 19 tập đoàn, tổng công ty ước đạt gần 85.887 tỷ đồng, bằng 105% kế hoạch năm. Xin cảm ơn ông! Hương Dịu (thực hiện)

KỲ VỌNG TÍCH CỰC VỀ TĂNG TRƯỞNG GDP

Cuối năm 2024, nền kinh tế Việt Nam vẫn tiếp tục đón nhận nhiều kỳ vọng tích cực về tăng trưởng GDP. Với dự báo từ các tổ chức quốc tế và động lực từ chính sách trong nước, nhiều ý kiến lạc quan cho rằng, Việt Nam có khả năng vượt mục tiêu GDP mà Quốc hội đã đề ra. Để hiểu rõ hơn về những yếu tố thúc đẩy và các dự đoán cho tương lai, chúng tôi đã có buổi trao đổi với PGS. TS Đinh Trọng Thịnh, Nguyên Trưởng Khoa Tài chính quốc tế - Học viện Tài chính, quanh vấn đề này.     Thưa ông, chỉ còn hơn một tháng nữa là kết thúc năm 2024, nhiều ý kiến nhận định tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam năm nay sẽ vượt mục tiêu Quốc hội đề ra. Ông đánh giá như thế nào về nhận định này? Chắc chắn chúng ta sẽ hoàn thành mục tiêu này. Tôi cho rằng, hai tháng cuối năm 2024 chính là thời điểm nước rút mà nếu khai thác tốt, Việt Nam có thể tạo ra những kỳ tích mới chưa từng có trong lịch sử phát triển thời kỳ đổi mới. Nhìn vào các yếu tố kinh tế vĩ mô và dự báo tăng trưởng từ nhiều tổ chức quốc tế, tôi thấy những nhận định này là có cơ sở. Các tổ chức tài chính lớn đều tỏ ra lạc quan về tiềm năng tăng trưởng của Việt Nam. Ngân hàng Standard Chartered đã nâng dự báo tăng trưởng GDP của Việt Nam từ 6% lên 6,8%. Trong khi đó, HSBC dự báo Việt Nam sẽ tăng trưởng ở mức 7%, trở thành nền kinh tế phát triển nhanh nhất ASEAN. Đặc biệt, mặc dù tốc độ tăng trưởng có dấu hiệu chậm lại từ quý III, nhưng GDP vẫn duy trì ở mức ổn định, với mức dự báo cho quý IV là khoảng 6,9%.   Theo tôi, với các điều kiện thuận lợi hiện tại, tăng trưởng GDP cả năm của Việt Nam có thể đạt mức từ 7,2% đến 7,3%. Có vẻ như các yếu tố nội tại đang hỗ trợ rất tốt cho kinh tế Việt Nam, nhưng tác động của các yếu tố quốc tế, như quyết định hạ lãi suất của Fed, sẽ có ảnh hưởng thế nào đến chúng ta, thưa ông? Đúng vậy. Việc Fed hạ lãi suất gần đây có ảnh hưởng rất tích cực đến kinh tế Việt Nam, dù có độ trễ nhất định. Ngày 19/9/2024, lần đầu tiên kể từ khi đại dịch COVID-19 bùng phát, Fed đã giảm lãi suất 50 điểm cơ bản. Sau đó không lâu, vào tháng 11, Fed tiếp tục giảm 25 điểm cơ bản nữa, đưa lãi suất xuống khoảng 4,5% đến 4,75%. Động thái hạ lãi suất này mang đến hai tác động chính. Thứ nhất, nó giúp ổn định kinh tế vĩ mô Việt Nam vì Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của chúng ta, với tổng kim ngạch xuất khẩu sang Mỹ đạt 98,4 tỷ USD trong 10 tháng đầu năm, chiếm trên 29% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Thứ hai, với việc lãi suất giảm, đồng USD sẽ yếu hơn, đồng nghĩa với việc các nhà nhập khẩu Mỹ có xu hướng tiêu dùng nhiều hơn, hỗ trợ mạnh cho xuất khẩu của Việt Nam. Tuy nhiên, như đã nói, tác động sẽ không đến ngay mà có độ trễ. Ngoài ra, tăng trưởng của Việt Nam vẫn phụ thuộc vào tình hình kinh tế toàn cầu, các yếu tố như lạm phát, chính sách thương mại và sự ổn định nội tại. Dù vậy, tôi cho rằng năm 2024 vẫn sẽ là một năm tăng trưởng tốt, nhờ sự phục hồi của kinh tế thế giới và chính sách hỗ trợ từ Chính phủ. Sang năm 2025, nếu Fed tiếp tục lộ trình nới lỏng tiền tệ, Việt Nam sẽ còn có thể duy trì đà tăng trưởng ổn định hơn. Ông đánh giá như thế nào về tác động từ việc ông Donald Trump vừa đắc cử Tổng thống Mỹ lên nền kinh tế Việt Nam? Việc ông Trump trở lại Nhà Trắng có thể đem đến cả cơ hội và thách thức cho Việt Nam. Ở nhiệm kỳ trước, ông Trump từng có nhiều chính sách bảo hộ, và nếu ông tiếp tục xu hướng này, chắc chắn sẽ có ảnh hưởng nhất định đến nền kinh tế toàn cầu, trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, điểm sáng là Việt Nam vẫn có khả năng duy trì đà tăng trưởng ổn định. Với việc ông Trump cam kết đánh thuế 10% trên tất cả hàng nhập khẩu và mức thuế 60% đối với hàng từ Trung Quốc, Việt Nam có thể hưởng lợi từ vị thế cạnh tranh. Trong đó, các mặt hàng xuất khẩu có lợi thế về giá rẻ như cá tra, cá basa sẽ đặc biệt cạnh tranh tại thị trường Mỹ khi giá thành thấp hơn cá Mỹ và Trung Quốc, do đó có thể chiếm lĩnh một phần thị phần tại đây. Dĩ nhiên, Việt Nam cũng cần cảnh giác với khả năng Mỹ áp thuế lên hàng hóa của chúng ta, nhất là khi thương mại Mỹ - Việt ngày càng phát triển. Nhưng tôi tin rằng khả năng đánh thuế nặng lên hàng hóa Việt Nam là khá thấp. Việt Nam có lợi thế cạnh tranh không chỉ ở chi phí nhân công mà còn ở hạ tầng cải thiện và sự linh hoạt, nhanh nhạy của các doanh nghiệp trong nước. Chính điều này giúp chúng ta duy trì vị thế trong chuỗi cung ứng toàn cầu, bất chấp sự thay đổi từ chính sách thuế quan của Mỹ. Quốc hội vừa thông qua kế hoạch tăng trưởng GDP năm 2025 ở mức 6,5% đến 7%, ông nghĩ sao về mục tiêu này? Tôi cho rằng đây là một mục tiêu thận trọng, nhưng hoàn toàn có thể vượt qua được. Nếu không có yếu tố bất ngờ như thiên tai, chiến tranh, hay tình hình lãi suất thay đổi mạnh mẽ, Việt Nam hoàn toàn có thể đạt được mức tăng trưởng vượt mức mục tiêu. Tôi dự báo hai kịch bản cho nền kinh tế Việt Nam trong năm 2025. Ở kịch bản thận trọng, chúng ta sẽ có mức tăng trưởng GDP từ 6,8% đến 7,3% với lạm phát ổn định trong khoảng 3,2% đến 3,5%. Còn trong kịch bản tích cực, GDP có thể đạt từ 7,3% đến 7,8% và lạm phát nằm trong mức 3,5% đến 3,8%. Để hiện thực hóa các mục tiêu này, chúng ta cần tập trung vào việc duy trì các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, thu hút vốn đầu tư nước ngoài và cải thiện hạ tầng để tối ưu hóa chi phí và thời gian vận chuyển. Ông có nghĩ rằng cải cách hành chính sẽ đóng vai trò lớn trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong thời gian tới? Cải cách hành chính là yếu tố then chốt để thúc đẩy nền kinh tế phát triển bền vững. Để đạt được các mục tiêu đặt ra, Chính phủ cần tiếp tục tinh giản thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển. Hiện tại, nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa, đang gặp khó khăn vì thủ tục hành chính phức tạp, mất nhiều thời gian và chi phí. Đơn giản hóa quy trình đăng ký, cấp phép và giảm bớt các thủ tục không cần thiết sẽ giúp doanh nghiệp tiết kiệm được chi phí, từ đó tạo động lực để mở rộng hoạt động sản xuất và đầu tư. Bên cạnh đó, các dự án đầu tư công cũng cần được triển khai đúng tiến độ để nâng cao chất lượng cơ sở hạ tầng, giúp kết nối và mở rộng giao thương. Việc đầu tư mạnh vào hạ tầng không chỉ giúp giảm chi phí logistics mà còn tăng tính cạnh tranh cho hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam trên thị trường quốc tế. Ông có thể đưa ra một kết luận về triển vọng kinh tế của Việt Nam trong năm tới không, thưa ông? Việt Nam đang ở trong giai đoạn rất thuận lợi để phát triển. Với tốc độ tăng trưởng ổn định, khả năng cạnh tranh và chính sách hỗ trợ từ Chính phủ, tôi tin rằng chúng ta sẽ tiếp tục là một điểm sáng của kinh tế ASEAN. Cùng với đó, doanh nghiệp Việt Nam ngày càng cải thiện về khả năng cạnh tranh quốc tế, không chỉ nhờ vào nguồn nhân công giá rẻ mà còn ở chất lượng sản phẩm và khả năng đáp ứng nhanh chóng với yêu cầu thị trường. Điều này giúp Việt Nam tạo dựng uy tín và duy trì đà phát triển ổn định. Tuy nhiên, trong bối cảnh kinh tế toàn cầu không ngừng biến động, Việt Nam cần duy trì chính sách linh hoạt, cải cách hành chính, và nâng cao năng lực nội tại của các ngành sản xuất chủ lực để ứng phó với những thách thức trong tương lai. Vẫn còn nhiều điều kiện để Việt Nam vươn lên trở thành một nền kinh tế phát triển hơn trong khu vực và trên toàn cầu, nếu chúng ta duy trì chiến lược và sự đoàn kết hiện tại. Trân trọng cảm ơn ông! Thu Lý (thực hiện)