Tại Công điện số 159/CĐ-TTg ngày 07/9/2025 về định hướng chỉ đạo, điều hành chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính yêu cầu Ngân hàng Nhà nước xây dựng có lộ trình và thí điểm việc gỡ bỏ biện pháp giao chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng để thực hiện từ năm 2026. Theo PGS.TS. Nguyễn Hữu Huân, giảng viên Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, hạn mức tín dụng đã được Ngân hàng Nhà nước áp dụng trong 14 năm nên cũng cần dỡ bỏ biện pháp hành chính này để phù hợp theo cơ chế thị trường song cần các giải pháp kiểm soát rủi ro hiệu quả.

Ông đánh giá như thế nào về việc áp dụng hạn mức tín dụng từ năm 2011 đến nay?
Bản chất của hạn mức tín dụng là một công cụ hành chính, giúp kiểm soát lạm phát tốt hơn. Công cụ này đóng vai trò như một van điều tiết dòng vốn chảy vào nền kinh tế, khi chảy quá mạnh thì có thể khóa ngay được.
Công cụ hạn mức tín dụng được áp dụng từ năm 2011 sau giai đoạn tăng trưởng tín dụng nóng vào các năm trước đó. Việc áp dụng này nhằm hạn chế tình trạng tín dụng tăng trưởng quá mức, tránh rủi ro cho hệ thống ngân hàng khi các chuẩn mực về an toàn vốn chưa được phổ biến rộng rãi, đồng thời dần chuyển sang các biện pháp điều hành dựa trên các chỉ tiêu an toàn theo chuẩn mực quốc tế. Từ đó, đảm bảo an toàn hoạt động của hệ thống ngân hàng, góp phần kiểm soát lạm phát, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, ổn định vĩ mô.
Tuy nhiên, công cụ này có hai mặt. Về mặt tích cực, hạn mức tín dụng tạo ra một cơ chế ngắt mạch nhanh và hiệu quả. Về mặt hạn chế, công cụ này mang tính hành chính và sự linh hoạt không cao. Ví dụ, hạn mức tín dụng được Ngân hàng Nhà nước giao cho các ngân hàng là 15%, dù nhu cầu nền kinh tế thấp nhưng các ngân hàng vẫn đẩy tín dụng lên 15%, như vậy, dòng vốn sẽ chảy vào các kênh đầu cơ. Ngược lại, khi nhu cầu nền kinh tế cao hơn mức 15% nhưng tăng trưởng tín dụng lại bị siết chỉ ở mức này thì rõ ràng dẫn đến tình trạng nền kinh tế bị thiếu vốn.
Do đó, tùy vào mục tiêu nới lỏng hay thắt chặt tiền tệ, nếu không dùng hạn mức tín dụng, Ngân hàng Nhà nước vẫn có thể dùng các công cụ thị trường khác để điều hành như lãi suất chính sách, nghiệp vụ thị trường mở thông qua việc Ngân hàng Nhà nước thực hiện mua, bán giấy tờ có giá với các thành viên, tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Ví dụ, muốn nới lỏng và hỗ trợ vốn cho doanh nghiệp thì khi không có hạn mức tín dụng, Ngân hàng Nhà nước vẫn có thể bơm tiền ra bằng nghiệp vụ thị trường mở.
Đến nay, khi hệ thống ngân hàng đã phát triển tích cực, chủ trương bỏ hạn mức tín dụng gắn với việc Ngân hàng Nhà nước chủ động điều hành lãi suất theo tín hiệu thị trường là hoàn toàn xác đáng và hợp lý, thúc đẩy hệ thống tài chính Việt Nam theo thông lệ quốc tế.
Theo ông, việc bỏ hạn mức tín dụng từ năm 2026 có hợp lý không?
Việc bỏ hạn mức tín dụng nên chọn thời điểm phù hợp, có lộ trình để tránh rủi ro. Bài học từ giai đoạn 2007-2010 vẫn còn nguyên giá trị, lạm phát tăng vọt khi tín dụng chảy quá nhiều ra nền kinh tế với mức tăng trưởng lên đến 25%-28%/năm. Việc bỏ hạn mức tín dụng ở thời điểm này sẽ giúp các ngân hàng thương mại có thể cho vay chủ động hơn nhưng nếu không kiểm soát tốt sẽ dễ đẩy tăng trưởng tín dụng lên quá cao, ảnh hưởng đến lạm phát cũng như tạo ra những rủi ro cho ổn định vĩ mô.
Xét ở khía cạnh khác, Ngân hàng Nhà nước vẫn có thể kiểm soát được dòng vốn chảy ra nền kinh tế bằng các công cụ thị trường như nêu trên. Chẳng hạn, khi lãi suất thực sự được vận hành theo cơ chế thị trường sẽ trở thành công cụ chủ đạo để điều tiết chi phí vốn, định hướng tín dụng vào các khu vực hiệu quả, giảm thiểu rủi ro phát sinh từ tín dụng dễ dãi.
Việc xác định lộ trình phù hợp liên quan đến tính sẵn sàng của hệ thống và mức độ hiệu quả của các công cụ thị trường. Nếu hiệu quả rồi thì việc bỏ hạn mức tín dụng sẽ không ảnh hưởng quá nhiều. Nhưng, nếu bỏ hạn mức tín dụng trong khi các công cụ của chính sách tiền tệ theo thị trường chưa thực sự hiệu quả thì cần cân nhắc, đặc biệt trong bối cảnh tình hình thế giới diễn biến khá phức tạp và khó lường.
Nhìn chung, khi bỏ hạn mức tín dụng thì các ngân hàng sẽ được chủ động hơn trong việc sử dụng nguồn vốn, bỏ được cơ chế xin - cho. Tùy vào năng lực mà mỗi ngân hàng có thể phát triển nguồn vốn theo khả năng và không bị ảnh hưởng bởi công cụ hành chính. Ngân hàng Nhà nước sẽ giám sát bằng hệ số quản trị rủi ro của các ngân hàng. Những ngân hàng nào có hệ số tốt thì được cho vay trên tỷ lệ vốn nhiều hơn và ngược lại.
Bên cạnh việc bỏ hạn mức tín dụng, cần các giải pháp gì để kiểm soát rủi ro trong hệ thống và nền kinh tế, thưa ông?
Việc bỏ hạn mức tín dụng là cần thiết song cũng phải rút kinh nghiệm từ bài học lịch sử giai đoạn trước dẫn đến lạm phát ở mức cao. Kinh nghiệm thế giới cho thấy, cơ quan điều hành sẽ cần xây dựng các mô hình, hệ thống cảnh báo sớm, dự báo chính xác về lạm phát, về tăng trưởng kinh tế và các yếu tố vĩ mô khác. Chẳng hạn ở Mỹ có hệ thống cơ sở dữ liệu kinh tế và tài chính (FRED), tập hợp hàng trăm nghìn chuỗi dữ liệu kinh tế, tài chính, và xã hội từ nhiều nguồn như Cục Thống kê Lao động, Cục Phân tích Kinh tế, Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Ngân hàng Thế giới… nhằm hỗ trợ nghiên cứu và hoạch định chính sách.
Trên cơ sở phân tích dữ liệu, cơ quan điều hành có thể đưa ra dự báo lạm phát trong tương lai để thắt chặt tiền tệ từ sớm, không đợi lạm phát xảy ra mới thắt chặt, lúc đó sẽ quá muộn do chính sách tiền tệ luôn có độ trễ. Khi có hệ thống dự báo chính xác thì việc điều hành chính sách tiền tệ sẽ đạt hiệu quả cao hơn. Ngoài ra, để kiểm soát tốt rủi ro khi bỏ hạn mức tín dụng, hệ thống ngân hàng cần được bổ sung các biện pháp quản lý tiên tiến, kết hợp với việc ứng dụng mạnh mẽ công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn (big data), nâng chuẩn quản trị rủi ro, hoàn thiện các quy định an toàn và tiếp tục duy trì sự giám sát chủ động từ Ngân hàng Nhà nước. Một điều quan trọng là vai trò truyền thông chính sách, tránh đưa ra thông điệp cho rằng đây là tín hiệu nới lỏng tiền tệ, vô hình trung đẩy kỳ vọng lạm phát.
Trân trọng cảm ơn ông!
Lê Hường (thực hiện)
(Theo Tạp chí Nghiên cứu Khoa học kiểm toán, tháng 9/2025)