Thứ năm, 13/11/2025

Điện thoại (024) 6287 3463

Đường dây nóng (024) 6287 3463

Liên hệ quảng cáo (+84)915.632.345

Thứ năm, 13/11/2025
Share on Facebook
Copy to Clipboard

KINH NGHIỆM ỨNG PHÓ CỦA TRUNG QUỐC

(khoahockiemtoan.vn) - Như chúng ta đã biết, Trung Quốc đã trở thành thành viên chính thức thứ 143 của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) vào ngày 11 tháng 12 năm 2001.

 

Việc gia nhập WTO đã mang đến cho Trung Quốc cả những xung đột, mâu thuẫn, áp lực cạnh tranh và động lực phát triển trong môi trường và tình hình mới. Trước bối cảnh đó, ngành kiểm toán của Trung Quốc cũng phải đối mặt với nhiều rủi ro mới. Chính vì vậy, ngành kiểm toán của Trung Quốc nói chung và Kiểm toán Nhà nước Trung Quốc (CNAO) nói riêng buộc phải đề ra các biện pháp ứng phó để giảm thiểu rủi ro nhằm tiếp tục đóng vai trò tích cực trong việc giữ vững định hướng kinh tế thị trường theo các nguyên tắc của WTO đồng thời đảm bảo chức năng giám sát nền kinh tế xã hội chủ nghĩa của Trung Quốc.

Là một nước có rất nhiều điểm tương đồng với Trung Quốc và cũng đang đứng trước nhiều thách thức của quá trình thực hiện các cam kết với WTO, Kiểm toán Nhà nước Việt Nam cần nghiên cứu những bài học kinh nghiệm của Trung Quốc để có thể đưa ra được các định hướng chiến lược và giải pháp tổ chức thực hiện để vừa thực thi tốt nhiệm vụ của mình theo Luật Kiểm toán Nhà nước, vừa góp phần vào việc thực hiện tốt các cam kết với WTO. Trong phạm vi hẹp, bài viết chỉ đề cập đến một số rủi ro mà ngành kiểm toán Trung Quốc phải đối mặt khi Trung Quốc gia nhập WTO và các biện pháp ứng phó chủ yếu.

1. Một số rủi ro kiểm toán nảy sinh khi Trung Quốc gia nhập WTO

Việc gia nhập WTO của Trung Quốc cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ đã thúc đẩy hơn nữa sự phát triển kinh tế của Trung Quốc, mang đến nhiều thay đổi cho môi trường kinh tế nói chung và môi trường kiểm toán nói riêng. Những thay đổi này bao hàm cả cơ hội phát triển lẫn rủi ro cho ngành kiểm toán của Trung Quốc.

a. Rủi ro mang tính quốc tế đối với hoạt động kiểm toán

WTO làm tăng tốc độ quốc tế hóa hoạt động kiểm toán của Trung Quốc, làm tăng tiến trình hội nhập của thị trường kiểm toán của Trung Quốc. Các công ty kế toán, kiểm toán của Trung Quốc giờ đây không chỉ thực hiện các hợp đồng kiểm toán trong nước mà còn có cơ hội cộng tác với các kế toán viên Trung Quốc đang làm việc ở nước ngoài để thực hiện các dịch vụ kiểm toán, hoặc ký thỏa thuận, hợp đồng kinh doanh quốc tế với các công ty kế toán, công ty liên doanh nước ngoài…

Tuy nhiên, do sự khác biệt rất lớn về trình độ phát triển kinh tế giữa các quốc gia (giữa Trung Quốc với các quốc gia phát triển và các quốc gia đang phát triển) nên môi trường kiểm toán, thực tiễn kiểm toán, thông lệ và chuẩn mực kiểm toán cũng như kiến thức và kinh nghiệm kiểm toán giữa các quốc gia và giữa các kiểm toán viên có sự khác biệt rõ nét. Đây chính là rủi ro mang tính quốc tế đối với hoạt động kiểm toán.

b. Rủi ro khi kiểm toán các doanh nghiệp “online”

Mạng lưới công nghệ thông tin đã giúp sự phát triển của các hoạt động kinh tế ngày càng trở nên đa dạng, phong phú. Với các thành tựu của khoa học công nghệ, không gian hoạt động kinh tế giờ đã trở thành “không gian truyền thông” và doanh nghiệp hoạt động trong “không gian truyền thông” được gọi là “doanh nghiệp trực tuyến” (doanh nghiệp “online”). “Doanh nghiệp trực tuyến” có đặc trưng cơ bản là “ảo”, vô hình, vì vậy kiểm toán viên khó có thể xác định chính xác phạm vi và quy mô hoạt động của doanh nghiệp này; việc kiểm tra các dữ liệu kế toán và thu thập bằng chứng kiểm toán cũng trở nên khó khăn hơn rất nhiều. Đây chính là rủi ro về đối tượng kiểm toán.

c. Rủi ro về những thay đổi của vật mang tin

Sự phát triển của công nghệ thông tin đã hiện thực hóa việc giao dịch không thông qua giấy tờ. Vật mang tin đã chuyển từ giấy sang đĩa, băng ghi âm và các phương tiện từ tính khác. Việc lưu trữ thông tin từ tính là vô hình, chỉ nhờ sự hỗ trợ của máy tính, bằng ngôn ngữ tin học mới có thể hiểu được thông tin hàm chứa nội dung gì. Việc sử dụng các phương tiện từ tính cũng khó kiểm soát ví dụ việc ký nhận, đóng dấu điện tử… rất khó chứng thực. Điều này cũng mang đến những rủi ro kiểm toán mới.

d. Tài sản vô hình - rủi ro kiểm toán

WTO đã làm tăng quy mô và phạm vi kiểm toán tài sản vô hình. Sự bùng nổ và phát triển của công nghệ thông tin đã làm cho giá trị vô hình của nhiều tài sản tăng lên hoặc giảm đi một cách đáng kể. Tính hiệu quả của các thông tin mới ngày càng tăng sẽ làm giảm giá trị của các thông tin, kiến thức cũ, lỗi thời do lợi ích kinh tế của tài sản vô hình gắn chặt với sự phát triển của môi trường kinh tế, xã hội. Do đó, giá trị của tài sản vô hình cùng với tính thiếu chắc chắn của nó trong nền kinh tế hiện đại sẽ khiến kiểm toán tài sản vô hình hàm chứa rủi ro lớn hơn.

 e. Rủi ro kiểm toán quản lý

WTO sẽ giúp cải thiện kiểm toán hoạt động quản lý, vì khi thực hiện nguyên tắc minh bạch của WTO, các hoạt động quản lý của doanh nghiệp sẽ được thể hiện toàn diện và rõ ràng hơn. Gia nhập WTO, các doanh nghiệp trong nước buộc phải đứng trước áp lực cạnh tranh trên chính thị trường trong nước và phải thích ứng với sự biến động của thị trường. Thị trường thay đổi thì sách lược kinh doanh của doanh nghiệp cũng sẽ thay đổi theo. Hoạt động quản lý của doanh nghiệp đôi khi là những thử nghiệm của thị trường nên việc kiểm toán hoạt động quản lý của doanh nghiệp sẽ trở nên khó khăn hơn. Đây chính là một trong những rủi ro kiểm toán mới.  

f. Rủi ro trong kiểm toán trách nhiệm xã hội

WTO thúc đẩy và đề cao trách  nhiệm xã hội. Một trong những nhiệm vụ mới của ngành kiểm toán, đặc biệt là kiểm toán Nhà nước đó là kiểm toán trách nhiệm xã hội. Trách nhiệm xã hội được thể hiện ở nhiều góc độ khác nhau như: trách nhiệm chung của toàn xã hội trong việc xử lý vấn đề ô nhiễm môi trường, giảm khí thải, tăng lợi ích của người lao động, hỗ trợ xây dựng các khu chung cư… Nếu như vậy sẽ khó có thể xác định tiêu chí và phương pháp đo lường, đánh giá trách nhiệm xã hội một cách hợp lý; việc thu thập bằng chứng để kiểm toán cũng không dễ dàng, thuận lợi. Đây chính là rủi ro tiếp theo mà ngành kiểm toán phải đối mặt.

2. Biên pháp chủ yếu để giảm thiểu các rủi ro của ngành kiểm toán Trung Quốc

Trước những rủi ro mới phát sinh khi gia nhập WTO, một những biện pháp mấu chốt được đề xuất đó là ngành kiểm toán Trung Quốc phải cải tiến thường xuyên phương pháp và công nghệ kiểm toán. Ngành kiểm toán cũng đưa ra một số biện pháp giảm thiểu các rủi ro nói trên như sau:

Thứ nhất là thúc đẩy tốc độ quốc tế hóa hoạt động kiểm toán. Ngành kiểm toán Trung Quốc cần đổi mới hoạt động và chất lượng kiểm toán của mình trên cơ sở tham khảo các chuẩn mực, thông lệ kiểm toán quốc tế. Thông qua sự hợp tác liên quốc gia trong lĩnh vực kiểm toán, Trung Quốc sẽ thúc đẩy hơn nữa tốc độ quốc tế hóa hoạt động kiểm toán của mình. Ngành kiểm toán Trung Quốc cũng cần tăng cường công tác đào tạo cho các kiểm toán viên các kiến thức và thông tin liên quan đến thực tiễn kiểm toán trong môi trường quốc tế, học và sử dụng thành thạo các kỹ thuật kiểm toán quốc tế hiện đại.

Thứ hai là xây dựng các quy trình và phương pháp kiểm toán mới. Việc gia nhập WTO đã đặt ngành kiểm toán Trung Quốc trước thách thức mở rộng đối tượng, nội dung và phạm vi kiểm toán. Nội dung và phạm vi kiểm toán sẽ không dừng lại ở kiểm toán hàng tồn kho, tài sản cố định và các tài sản hữu hình khác mà đã chuyển sang kiểm toán nhiều loại tài sản vô hình mới; kiểm toán tài chính không chỉ mở rộng sang kiểm toán hoạt động, mà sẽ chuyển sang kiểm toán hoạt động quản lý của đơn vị và kiểm toán trách nhiệm xã hội. Đối tượng kiểm toán không chỉ dừng lại ở các doanh nghiệp có trụ sở hữu hình mà đã mở rộng sang loại hình doanh nghiệp “trực tuyến”, hoạt động trong “không gian truyền thông”. Trước thực tế đó, ngành kiểm toán cần sớm xây dựng các quy trình, phương pháp và kỹ thuật kiểm toán mới phù hợp với từng loại hình kiểm toán; đồng thời chuẩn hóa các quy trình, phương pháp, kỹ thuật kiểm toán hiện có.

Thứ ba là áp dụng một cách toàn diện công nghệ thông tin hiện đại. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế tri thức, nền kinh tế thông tin, hoạt động kế toán của các đơn vị được kiểm toán được lập trình và hạch toán trên hệ thống máy vi tính. Việc kiểm toán thông tin kế toán với tư cách là mục tiêu chính của hoạt động kinh tế cần phải được áp dụng công nghệ thông tin hiện đại để đẩy nhanh quá trình thu thập và xử lý thông tin nhằm nâng cao chất lượng kiểm toán. Khi kiểm toán các doanh nghiệp “trực tuyến”, các kiểm toán viên cần khai thác triệt để và hiệu quả các thông tin về đơn vị trên mạng nhằm giảm thiểu tối đa rủi ro kiểm toán do thu thập thiếu thông tin và thông tin không chính xác. Tuy nhiên, cần phải cẩn trọng để phân biệt thông tin “thật” và thông tin “ảo”.

Thứ tư là kiểm soát các rủi ro trong lĩnh vực kế toán và chuẩn hóa hoạt động kế toán. Gia nhập WTO và hội nhập kinh tế quốc tế, độ tin cậy của thông tin kế toán được coi như một chìa khóa cho sự thành công của hoạt động kiểm toán. Kiểm soát rủi ro trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp sẽ là một trong những nhiệm vụ quan trọng của kế toán nhằm hỗ trợ cho việc thiết lập hệ thống thông tin quản lý và kiểm soát rủi ro. Việc thiết lập hệ thống thông tin này yêu cầu doanh nghiệp phải thay đổi mô hình kế toán truyền thống thiết lập mô hình “quản lý và kiểm soát rủi ro”, thiết lập cơ chế báo động để quản lý rủi ro doanh nghiệp, tăng cường các chức năng quản lý của kế toán, nghiên cứu xu hướng phát triển thị trường, áp dụng các phương pháp cụ thể nhằm đảm bảo tính chất xác thực của thông tin kế toán.

Thứ năm là cải thiện hơn nữa các quy định pháp lý về hoạt động kiểm toán. Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế chịu sự chi phối của pháp luật. Sau khi gia nhập WTO, các hoạt động kinh tế hợp pháp ở Trung Quốc sẽ càng được tăng cường. Trong nền kinh tế thị trường, kiểm toán chỉ có thể tồn tại và phát triển khi vận động trong môi trường pháp lý thích hợp. Do đó, sau khi gia nhập WTO, trước hết, ngành kiểm toán cần phải tăng cường tính pháp lý của hoạt động kiểm toán; cần thiết lập một hệ thống chuẩn mực và hướng dẫn kiểm toán mới để hoạt động kiểm toán được chuẩn hóa và thể chế hóa. Thứ hai, các biện pháp chế tài đối với các kế toán viên công chứng và các đơn vị kiểm toán có hành vi gian lận cần phải có hiệu lực hơn nhằm nâng cao nhận thức về rủi ro và tính cẩn trọng cũng như đạo đức nghề nghiệp của các kiểm toán viên. Thứ ba, việc từng bước phổ biến Luật Kiểm toán Nhà nước, pháp luật và các quy định có liên quan đến hoạt động kiểm toán là hết sức cần thiết. Khi các nhà đầu tư và công chúng đều biết sử dụng pháp luật như một thứ vũ khí khi tham gia thị trường nhằm tránh những tồn thất thì sẽ tạo lập được một hệ thống giám sát chung trong toàn xã hội.

Thứ sáu là tăng nhận thức của kiểm toán viên về rủi ro kiểm toán. Nghề kiểm toán là một nghề vốn chứa đựng nhiều rủi ro. Sau khi gia nhập WTO, quy mô và loại hình rủi ro kiểm toán cũng tăng lên, yêu cầu kiểm toán viên cần phải nhận thức đúng đắn hơn về rủi ro kiểm toán. Do đó, kiểm toán viên cần: (1) nghiên cứu một cách hệ thống về rủi ro kiểm toán, nắm vững được phương pháp luận kiểm toán mới; tập trung vào từng phát hiện kiểm toán để trên cơ sở đó đưa ra các biện pháp ngăn ngừa rủi ro một cách thích hợp. (2) Nhận thức khái niệm về kiểm toán và kiểm soát một cách đầy đủ. Sau khi gia nhập WTO, các kiểm toán viên cần tập trung vào khâu kiểm soát hoạt động kiểm toán; áp dụng kỹ thuật và công nghệ mới nhằm tăng cường kỹ năng kiểm toán các ngành công nghiệp công nghệ cao và thúc đẩy sự tăng trưởng nhanh chóng của các ngành này. (3) Tạo dựng ý thức cạnh tranh và đổi mới nhận thức. Gia nhập WTO, hội nhập kinh tế quốc tế càng khẳng định rõ vai trò của khoa học công nghệ thông tin đối với sự phát triển kinh tế, vì vậy, đội ngũ kiểm toán viên cần được trang bị các nhận thức về kinh tế tri thức; được đào tạo, bồi dưỡng về khái niệm kinh tế theo hướng cạnh tranh; được trang bị khả năng phản ứng nhanh, linh hoạt và tư duy sáng tạo trong cách thức lập kế hoạch kiểm toán, thực hiện kiểm toán tại hiện trường và đưa ra ý kiến, khuyến nghị phù hợp vì hiệu quả và sự phát triển của đơn vị được kiểm toán.

3. Một số bài học kinh nghiệm và giải pháp cho Kiểm toán Nhà nước Việt Nam trong điều kiện Việt Nam là thành viên của WTO

a. Hoàn thiện cơ sở pháp lý và các quy định về chuyên môn, nghiệp vụ cho tổ chức và hoạt động của Kiểm toán Nhà nước

Về hoàn thiện cơ sở pháp lý, Kiểm toán Nhà nước Việt Nam cần chủ động nghiên cứu để đề xuất bổ sung vào Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở thời điểm thích hợp một số điều khoản quy định (như Luật Kiểm toán Nhà nước) về vị trí pháp lý, tính độc lập của cơ quan Kiểm toán Nhà nước. Bên cạnh đó, cũng cần bổ sung vào Luật Kiểm toán nhà nước một số chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm toán Nhà nước như: bổ sung nhiệm vụ kiểm toán thuế, nhiệm vụ  phòng, chống tham nhũng, nhiệm vụ kiểm toán nợ công...; quy định rõ giá trị pháp lý của báo cáo kiểm toán và chế tài đối với các hành vi vi phạm Luật Kiểm toán nhà nước.

Về quy định chuyên môn, nghiệp vụ, Kiểm toán Nhà nước cần sớm hoàn thiện hệ thống chuẩn mực, quy trình kiểm toán và hệ thống mẫu biểu hồ sơ kiểm toán phù hợp với thông lệ quốc tế và theo yêu cầu nhiệm vụ trong điều kiện Việt Nam gia nhập WTO, nhằm ngày một nâng cao chất lượng hoạt động kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước.

b. Đổi mới phương thức tổ chức hoạt động kiểm toán

Kiểm toán Nhà nước cần đa dạng hóa phương thức tổ chức hoạt động kiểm toán theo hướng kết hợp nhiều loại hình kiểm toán trong một cuộc kiểm toán; phát triển, tăng số lượng các cuộc kiểm toán chuyên đề, kiểm toán điều tra theo yêu cầu quản lý vĩ mô của Chính phủ, Quốc hội và các cơ quan chức năng của Nhà nước.

c. Đổi mới nội dung và phát triển các loại hình kiểm toán

Kiểm toán Nhà nước cần phải thực hiện tốt các loại hình kiểm toán theo quy định của Luật Kiểm toán Nhà nước, trọng điểm là kiểm toán báo cáo tài chính và kiểm toán tuân thủ. Trên cơ sở đó, từng bước mở rộng kiểm toán hoạt động, trước hết là trong lĩnh vực quản lý, sử dụng ngân sách, đầu tư xây dựng và chương trình mục tiêu quốc gia. Chuẩn bị đầy đủ các điều kiện cần thiết, đặc biệt là nguồn nhân lực để tiến hành kiểm toán trong môi trường ứng dụng công nghệ thông tin.

c. Phát triển nhân sự và công nghệ kiểm toán

 Để tạo dựng được nguồn nhân lực chất lượng cao, Kiểm toán Nhà nước cần phải có một hệ thống chính sách đồng bộ, toàn diện từ tuyển dụng, thu hút nhân tài, đào tạo và phát triển nghề nghiệp, văn hóa và đạo đức nghề nghiệp đến ưu đãi, khen thưởng, kỷ luật. Trước tiên, Kiểm toán Nhà nước cần tổ chức rà soát, đánh giá lại hệ thống tiêu chuẩn kiểm toán viên nhà nước hiện hành so với yêu cầu nhiệm vụ trong điều kiện hội nhập WTO, nhất là tiêu chuẩn về trình độ chuyên môn, hiểu biết pháp luật và thông lệ quốc tế, cũng như kinh tế quốc tế. Các tiêu chuẩn đưa ra cần cụ thể, có định lượng rõ ràng, dễ kiểm tra, đánh giá. Trên cơ sở các tiêu chuẩn đó, tổ chức tuyển dụng và đào tạo, bồi dưỡng thi nâng ngạch và bổ nhiệm giữ ngạch kiểm toán viên nhà nước theo đúng tiêu chuẩn quy định cho từng ngạch, bậc kiểm toán viên.

Việc phát triển công nghệ thông tin của Kiểm toán Nhà nước nhằm đáp ứng đầy đủ nhất về công cụ, phương tiện tiên tiến, kỹ thuật hiện đại cho việc thực hiện một cách hiệu quả chức năng, nhiệm vụ của Kiểm toán Nhà nước, đồng thời thúc đẩy sự phát triển, hoàn thiện về hoạt động của Kiểm toán Nhà nước trên tất cả các lĩnh vực hoạt động. Mặt khác, đơn vị được kiểm toán cũng sử dụng nhiều công nghệ thông tin ngày càng hiện đại phục vụ cho hoạt động, kỹ thuật số hóa ngày càng phát triển với nhiều tiện ích được áp dụng. Vì vậy, Kiểm toán Nhà nước cũng cần phải sẵn sàng các điều kiện cần thiết cho việc kiểm toán trong môi trường công nghệ thông tin.

d. Nâng cao chất lượng và tăng cường kiểm soát chất lượng kiểm toán

Chất lượng kiểm toán được thể hiện trước hết ở những sản phẩm của Kiểm toán Nhà nước, đó là các báo cáo kiểm toán, các ý kiến tư vấn, tham gia của Kiểm toán Nhà nước vào quá trình hoạch định chính sách, xây dựng pháp luật, thông tin phục vụ cho công tác quản lý, điều hành kinh tế, tài chính - ngân sách, tiền tệ. Kết quả của mỗi cuộc kiểm toán cần phải được xâu chuỗi, tổng hợp để có những đánh giá toàn diện, sâu sắc về vấn đề nào đó, đặc biệt là những vấn đề liên quan đến cam kết WTO và hội nhập kinh tế quốc tế. Muốn vậy, Kiểm toán Nhà nước cần phải có những định hướng, mục tiêu kiểm toán dài hạn, trung hạn làm cơ sở cho xây dựng kế hoạch kiểm toán dài hạn, trung hạn và từng năm. Đồng thời phải có bộ phận chuyên trách về phân tích, tổng hợp kết quả kiểm toán, am hiểu luật pháp và kinh tế vĩ mô.

                                                                              Ths. Đặng Thị Hoàng Liên

Tài liệu tham khảo

- Vương Đình Huệ, “Nghiên cứu tác động của quá trình thực hiện các cam kết thương mại khi Việt Nam là thành viên của WTO đối với hoạt động của Kiểm toán Nhà nước”, Đề tài cấp bộ năm 2007.

- Yuan Jie Zhu. Competitive order of the construction of [M]. Beijing: Peking University Press, 2003. [3] Chen Zhengxing, Zhou Chun. Audit Cultural Studies [M]. Beijing: China economic Press, 2004.

- Xia Dong, Lin Zhen Jackson. China's audit market competition conditions [J]. Accounting Research, 2003, (3).

- Zeng Yong. China's certified public accountants audit the quality of [J]. Management Science Digest, 2004, (2).

- Zhou Hong, Zheng. Evaluation of the French auditing profession management system [EB / OL]. China accounting Wang Xiao, 2004, (1).

- Li Chuan-Jun, Qi defender and so on. U.S. audit regulators Enlightenment [J]. Zhongzhou audit, 2003, (10).

Lượt xem: 1

Cần triển khai hiệu quả các chính sách hỗ trợ tăng trưởng

Ông Sacha Dray, Chuyên gia Kinh tế của Ngân hàng Thế giới (WB), cho rằng tăng trưởng kinh tế Việt Nam đã đạt kết quả tích cực trong nửa đầu năm nay song vẫn còn nhiều thách thức trong những tháng cuối năm, chủ yếu do sự bất định từ môi trường kinh tế bên ngoài. Do đó, cần các giải pháp hiệu quả để cải thiện hoạt động của doanh nghiệp và tiếp tục thúc đẩy giải ngân đầu tư công. Theo ông, kinh tế Việt Nam từ đầu năm đến nay có điểm gì nổi bật? Trong nửa đầu năm 2025, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam khả quan, đạt mức 7,5%, cao hơn so với khu vực, vượt xa các nền kinh tế lớn của ASEAN như Thái Lan, Philippines, Indonesia, Malaysia. Tăng trưởng GDP của Việt Nam tăng cao nhờ xuất khẩu tăng mạnh do các doanh nghiệp đang đẩy mạnh đơn hàng xuất đi trong bối cảnh bất định về chính sách thương mại toàn cầu. Tăng trưởng trên có được là nhờ xuất khẩu tăng lên đến 14,2% trong nửa đầu năm 2025 (so cùng kỳ), bao gồm xuất khẩu hàng hóa sang Hoa Kỳ tăng mạnh, lên đến 28,3%, trước dự kiến thuế quan gia tăng trong thời gian tới. Nhập khẩu cũng tăng 16,0% trong nửa đầu năm 2025 (so cùng kỳ) để đáp ứng nhu cầu sản xuất để đảm bảo tiến độ xuất khẩu. Tăng trưởng đầu tư theo giá so sánh đạt 8,0% (so cùng kỳ), so với 6,7% trong nửa đầu năm 2024 (so cùng kỳ), nhờ đầu tư nước ngoài vẫn đứng vững và đầu tư công được đẩy mạnh. Tiêu dùng cuối cùng trong nửa đầu năm 2025 tăng 8,0%, so với 5,8% (cùng kỳ năm ngoái), nhờ du lịch khởi sắc. Nhìn trên góc độ cung, các lĩnh vực chế biến, chế tạo vẫn đóng góp lớn nhất cho tăng trưởng kinh tế (ở mức 30,7% cho tăng trưởng GDP trong nửa đầu năm 2025), tiếp theo là các dịch vụ liên quan đến thương mại (8,3%). Khu vực dịch vụ đóng góp gần một nửa tổng tăng trưởng kinh tế trong sáu tháng đầu năm 2025. Kết quả này cũng vượt trội so với thành tích mà Việt Nam đạt được trong 10 năm qua, nếu không tính giai đoạn phục hồi sau COVID-19. Nói cách khác, nền kinh tế đã có một màn thể hiện rất ấn tượng, phần lớn nhờ vào sự gia tăng xuất khẩu. Sự tăng trưởng xuất khẩu này đã thúc đẩy sản xuất hàng công nghiệp, đồng thời kéo theo sự phát triển của các dịch vụ thương mại như vận tải và logistics. Ông đánh giá như thế nào về công tác điều hành chính sách tài khóa và tiền tệ từ đầu năm đến nay? Từ đầu năm 2025 tới nay, chính sách tài khóa được thực hiện theo hướng mở rộng linh hoạt thông qua đầu tư công. Theo đó, đầu tư công mở rộng cả ở cấp trung ương và địa phương cho các dự án hạ tầng lớn về giao thông, năng lượng, đồng thời, tác động lớn với nhu cầu về nguyên vật liệu. Tuy nhiên, cần thêm thời gian để hiện thực hóa tác động này với tăng trưởng kinh tế và sẽ càng thể hiện rõ hơn trong trung hạn. Cùng với chính sách tài khóa mở rộng, chính sách tiền tệ được nới lỏng khi Ngân hàng Nhà nước dùng nhiều biện pháp can thiệp để kiềm chế áp lực tỷ giá và đẩy mạnh tăng trưởng tín dụng. Chính sách tiền tệ nới lỏng trên đã hỗ trợ nền kinh tế phục hồi, với lãi suất chính sách thực về gần bằng không. Đến ngày 31/8/2025, tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đăng ký vào Việt Nam đạt 26,14 tỷ USD, tăng mạnh 27,3% so với cùng kỳ năm 2024. Đây có phải là kết quả khả quan không, thưa ông? Dù bối cảnh toàn cầu bất ổn, FDI vào Việt Nam vẫn bền bỉ, vốn giải ngân từ các doanh nghiệp nước ngoài đã tăng đáng kể. Các cam kết cho tương lai cũng duy trì tích cực. Kết quả này có được một phần nhờ cam kết mạnh mẽ của Chính phủ trong việc cải thiện môi trường kinh doanh. Việc đặt mục tiêu cắt giảm và đơn giản hóa ít nhất 30% điều kiện kinh doanh, thủ tục hành chính và chi phí tuân thủ trong năm 2025 là điều rất đáng hoan nghênh và sẽ góp phần củng cố niềm tin của nhà đầu tư. Một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế là đầu tư công, ông đánh giá như thế nào về tốc độ giải ngân đầu tư công với tăng trưởng kinh tế? Tính đến tháng 8/2025, mức giải ngân đạt khoảng 40% so với kế hoạch đề ra. Tốc độ giải ngân vốn đầu tư công đã cải thiện cả ở cấp trung ương và địa phương. Bên cạnh đó, điểm tích cực khác là cam kết chính trị mạnh mẽ trong việc tiếp tục thúc đẩy đầu tư công, thông qua việc thành lập các cơ quan, ủy ban mới để phối hợp nâng cao hiệu quả giải ngân. Tuy nhiên, nhiều khó khăn trong khâu triển khai đã tồn tại lâu dài và đến nay vẫn chưa được khắc phục triệt để. Một số biện pháp đã được triển khai sẽ cần thời gian để phát huy hiệu quả. Ví dụ, việc sáp nhập các tỉnh, thành hoặc điều chỉnh Luật Đầu tư công chắc chắn sẽ có tác động tích cực, nhưng trong ngắn hạn có thể gây ra gián đoạn, ảnh hưởng đến tiến độ giải ngân. Một số biện pháp có thể hỗ trợ gồm: Trao thêm quyền linh hoạt trong việc điều chỉnh dự án trong suốt vòng đời đầu tư; tiếp tục tinh giản thủ tục, tăng cường giám sát, cũng như nâng cao hiệu quả ứng dụng thông tin trong theo dõi, quản lý dự án. Chính phủ Việt Nam đặt mục tiêu tăng trưởng khá tham vọng trong năm nay, khoảng 8,3% – 8,5%. Vậy ông có khuyến nghị gì để Việt Nam đạt được mục tiêu này? Dù tăng trưởng kinh tế đạt kết quả tích cực trong những tháng vừa qua song trong những tháng còn lại của năm, những bất định từ môi trường toàn cầu, đặc biệt là các biện pháp thuế quan mới và sự thiếu ổn định trong chính sách thương mại sẽ tiếp tục hiện hữu và có thể tác động đến tăng trưởng. Một phần động lực tăng trưởng trong nửa đầu năm đến từ việc xuất khẩu tăng trước thời hạn, nhằm đón đầu các mức thuế cao hơn, nhưng xu hướng này sẽ chấm dứt trong nửa cuối năm. Vì vậy, chúng tôi dự báo tăng trưởng sẽ chậm lại trong nửa cuối năm, với mức tăng trưởng chung đạt 6,6% trong năm 2025 và 6,1% trong năm 2026. Đây vẫn là kết quả rất tích cực, đặc biệt trong bối cảnh môi trường bên ngoài bất lợi. Chính phủ Việt Nam có thể triển khai một số chính sách để duy trì đà tăng trưởng hiện tại và giảm thiểu rủi ro, cả từ bên ngoài lẫn trong nước.  Thứ nhất, trong lĩnh vực thương mại, tiếp tục thúc đẩy các nỗ lực nhằm giảm bớt bất định xoay quanh chính sách thương mại, chẳng hạn như vấn đề trung chuyển hay tận dụng các thị trường khác để đa dạng hóa vị thế của Việt Nam. Thứ hai, tiếp tục cắt giảm các rào cản phi thuế quan, đồng thời đa dạng hóa sản phẩm xuất khẩu, không chỉ tập trung vào hàng hóa công nghiệp mà còn mở rộng sang dịch vụ, dịch vụ số và các sản phẩm công nghệ cao có giá trị gia tăng lớn. Thứ ba, tăng cường vai trò của doanh nghiệp trong nước để kích thích tiêu dùng tư nhân, qua đó duy trì đà tăng trưởng trong ngắn hạn. Ngoài ra, Chính phủ Việt Nam đang triển khai các kế hoạch đẩy mạnh đầu tư công. Đây là hướng đi rất tích cực để hỗ trợ tăng trưởng, nhằm hiện thực hóa mục tiêu tăng trưởng cao của Chính phủ và tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế trung hạn. Trân trọng cảm ơn ông!  Xuân Anh (thực hiện)  (Theo Tạp chí Nghiên cứu Khoa học kiểm toán, tháng 9/2025)

Bỏ hạn mức tín dụng, cần tăng cường các công cụ kiểm soát rủi ro hiệu quả

Tại Công điện số 159/CĐ-TTg ngày 07/9/2025 về định hướng chỉ đạo, điều hành chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính yêu cầu Ngân hàng Nhà nước xây dựng có lộ trình và thí điểm việc gỡ bỏ biện pháp giao chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng để thực hiện từ năm 2026. Theo PGS.TS. Nguyễn Hữu Huân, giảng viên Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, hạn mức tín dụng đã được Ngân hàng Nhà nước áp dụng trong 14 năm nên cũng cần dỡ bỏ biện pháp hành chính này để phù hợp theo cơ chế thị trường song cần các giải pháp kiểm soát rủi ro hiệu quả. Ông đánh giá như thế nào về việc áp dụng hạn mức tín dụng từ năm 2011 đến nay? Bản chất của hạn mức tín dụng là một công cụ hành chính, giúp kiểm soát lạm phát tốt hơn. Công cụ này đóng vai trò như một van điều tiết dòng vốn chảy vào nền kinh tế, khi chảy quá mạnh thì có thể khóa ngay được. Công cụ hạn mức tín dụng được áp dụng từ năm 2011 sau giai đoạn tăng trưởng tín dụng nóng vào các năm trước đó. Việc áp dụng này nhằm hạn chế tình trạng tín dụng tăng trưởng quá mức, tránh rủi ro cho hệ thống ngân hàng khi các chuẩn mực về an toàn vốn chưa được phổ biến rộng rãi, đồng thời dần chuyển sang các biện pháp điều hành dựa trên các chỉ tiêu an toàn theo chuẩn mực quốc tế. Từ đó, đảm bảo an toàn hoạt động của hệ thống ngân hàng, góp phần kiểm soát lạm phát, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, ổn định vĩ mô. Tuy nhiên, công cụ này có hai mặt. Về mặt tích cực, hạn mức tín dụng tạo ra một cơ chế ngắt mạch nhanh và hiệu quả. Về mặt hạn chế, công cụ này mang tính hành chính và sự linh hoạt không cao. Ví dụ, hạn mức tín dụng được Ngân hàng Nhà nước giao cho các ngân hàng là 15%, dù nhu cầu nền kinh tế thấp nhưng các ngân hàng vẫn đẩy tín dụng lên 15%, như vậy, dòng vốn sẽ chảy vào các kênh đầu cơ. Ngược lại, khi nhu cầu nền kinh tế cao hơn mức 15% nhưng tăng trưởng tín dụng lại bị siết chỉ ở mức này thì rõ ràng dẫn đến tình trạng nền kinh tế bị thiếu vốn. Do đó, tùy vào mục tiêu nới lỏng hay thắt chặt tiền tệ, nếu không dùng hạn mức tín dụng, Ngân hàng Nhà nước vẫn có thể dùng các công cụ thị trường khác để điều hành như lãi suất chính sách, nghiệp vụ thị trường mở thông qua việc Ngân hàng Nhà nước thực hiện mua, bán giấy tờ có giá với các thành viên, tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Ví dụ, muốn nới lỏng và hỗ trợ vốn cho doanh nghiệp thì khi không có hạn mức tín dụng, Ngân hàng Nhà nước vẫn có thể bơm tiền ra bằng nghiệp vụ thị trường mở. Đến nay, khi hệ thống ngân hàng đã phát triển tích cực, chủ trương bỏ hạn mức tín dụng gắn với việc Ngân hàng Nhà nước chủ động điều hành lãi suất theo tín hiệu thị trường là hoàn toàn xác đáng và hợp lý, thúc đẩy hệ thống tài chính Việt Nam theo thông lệ quốc tế. Theo ông, việc bỏ hạn mức tín dụng từ năm 2026 có hợp lý không? Việc bỏ hạn mức tín dụng nên chọn thời điểm phù hợp, có lộ trình để tránh rủi ro. Bài học từ giai đoạn 2007-2010 vẫn còn nguyên giá trị, lạm phát tăng vọt khi tín dụng chảy quá nhiều ra nền kinh tế với mức tăng trưởng lên đến 25%-28%/năm. Việc bỏ hạn mức tín dụng ở thời điểm này sẽ giúp các ngân hàng thương mại có thể cho vay chủ động hơn nhưng nếu không kiểm soát tốt sẽ dễ đẩy tăng trưởng tín dụng lên quá cao, ảnh hưởng đến lạm phát cũng như tạo ra những rủi ro cho ổn định vĩ mô. Xét ở khía cạnh khác, Ngân hàng Nhà nước vẫn có thể kiểm soát được dòng vốn chảy ra nền kinh tế bằng các công cụ thị trường như nêu trên. Chẳng hạn, khi lãi suất thực sự được vận hành theo cơ chế thị trường sẽ trở thành công cụ chủ đạo để điều tiết chi phí vốn, định hướng tín dụng vào các khu vực hiệu quả, giảm thiểu rủi ro phát sinh từ tín dụng dễ dãi. Việc xác định lộ trình phù hợp liên quan đến tính sẵn sàng của hệ thống và mức độ hiệu quả của các công cụ thị trường. Nếu hiệu quả rồi thì việc bỏ hạn mức tín dụng sẽ không ảnh hưởng quá nhiều. Nhưng, nếu bỏ hạn mức tín dụng trong khi các công cụ của chính sách tiền tệ theo thị trường chưa thực sự hiệu quả thì cần cân nhắc, đặc biệt trong bối cảnh tình hình thế giới diễn biến khá phức tạp và khó lường. Nhìn chung, khi bỏ hạn mức tín dụng thì các ngân hàng sẽ được chủ động hơn trong việc sử dụng nguồn vốn, bỏ được cơ chế xin - cho. Tùy vào năng lực mà mỗi ngân hàng có thể phát triển nguồn vốn theo khả năng và không bị ảnh hưởng bởi công cụ hành chính. Ngân hàng Nhà nước sẽ giám sát bằng hệ số quản trị rủi ro của các ngân hàng. Những ngân hàng nào có hệ số tốt thì được cho vay trên tỷ lệ vốn nhiều hơn và ngược lại. Bên cạnh việc bỏ hạn mức tín dụng, cần các giải pháp gì để kiểm soát rủi ro trong hệ thống và nền kinh tế, thưa ông? Việc bỏ hạn mức tín dụng là cần thiết song cũng phải rút kinh nghiệm từ bài học lịch sử giai đoạn trước dẫn đến lạm phát ở mức cao. Kinh nghiệm thế giới cho thấy, cơ quan điều hành sẽ cần xây dựng các mô hình, hệ thống cảnh báo sớm, dự báo chính xác về lạm phát, về tăng trưởng kinh tế và các yếu tố vĩ mô khác. Chẳng hạn ở Mỹ có hệ thống cơ sở dữ liệu kinh tế và tài chính (FRED), tập hợp hàng trăm nghìn chuỗi dữ liệu kinh tế, tài chính, và xã hội từ nhiều nguồn như Cục Thống kê Lao động, Cục Phân tích Kinh tế, Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Ngân hàng Thế giới… nhằm hỗ trợ nghiên cứu và hoạch định chính sách. Trên cơ sở phân tích dữ liệu, cơ quan điều hành có thể đưa ra dự báo lạm phát trong tương lai để thắt chặt tiền tệ từ sớm, không đợi lạm phát xảy ra mới thắt chặt, lúc đó sẽ quá muộn do chính sách tiền tệ luôn có độ trễ. Khi có hệ thống dự báo chính xác thì việc điều hành chính sách tiền tệ sẽ đạt hiệu quả cao hơn. Ngoài ra, để kiểm soát tốt rủi ro khi bỏ hạn mức tín dụng, hệ thống ngân hàng cần được bổ sung các biện pháp quản lý tiên tiến, kết hợp với việc ứng dụng mạnh mẽ công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn (big data), nâng chuẩn quản trị rủi ro, hoàn thiện các quy định an toàn và tiếp tục duy trì sự giám sát chủ động từ Ngân hàng Nhà nước. Một điều quan trọng là vai trò truyền thông chính sách, tránh đưa ra thông điệp cho rằng đây là tín hiệu nới lỏng tiền tệ, vô hình trung đẩy kỳ vọng lạm phát. Trân trọng cảm ơn ông! Lê Hường (thực hiện) (Theo Tạp chí Nghiên cứu Khoa học kiểm toán, tháng 9/2025)

Việt Nam hướng tới nước thu nhập cao: Vai trò then chốt của thể chế và khu vực tư nhân

Trong bối cảnh kinh tế - thương mại toàn cầu nhiều biến động, Việt Nam đang đặt mục tiêu đầy tham vọng trở thành nước thu nhập cao vào năm 2045. Theo Chuyên gia kinh tế, PGS.TS. Phạm Thế Anh - Trưởng Khoa kinh tế học (Đại học kinh tế Quốc dân), để hiện thực hóa mục tiêu này, Việt Nam cần một chiến lược cải cách toàn diện, tập trung vào hoàn thiện thể chế, cải thiện hiệu quả điều hành chính sách vĩ mô, thúc đẩy vai trò của khu vực tư nhân và đặc biệt là nâng cao chất lượng thực thi chính sách - điểm hạn chế suốt nhiều năm qua. PGS.TS. Phạm Thế Anh Trưởng Khoa kinh tế học (Đại học kinh tế Quốc dân) Ông đánh giá thế nào về thực trạng nền kinh tế hiện nay và những thách thức chính mà nước ta phải đối mặt trên con đường trở thành nước thu nhập cao vào năm 2045? Việt Nam đã đạt được những thành tựu kinh tế ấn tượng trong hơn ba thập kỷ qua, với tăng trưởng GDP bình quân khoảng 6,73%/năm và thu nhập bình quân đầu người từ 80 USD/người năm 1990 vươn lên mạnh mẽ đạt 4.700 USD/người năm 2024 theo thông tin từ Ngân hàng Thế giới (WB). Hơn nữa, trong hơn ba thập kỷ qua, Việt Nam đã và đang lựa chọn mô hình tăng trưởng dựa vào đầu tư và hướng ra xuất khẩu. Nếu như vào đầu những năm 1990, tỷ trọng xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ trong GDP của Việt Nam chỉ khoảng dưới 30%, thì con số này đã tăng lên trên 50% vào những năm 2000 và trên 80% trong những năm gần đây, để từ đó trở thành một trong những nền kinh tế có độ mở thương mại lớn nhất thế giới. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ trong cả giai đoạn 1991-2024 là khoảng 17%/năm. Việt Nam còn tham gia đàm phán, ký kết và thực hiện một loạt các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới với các đối tác kinh tế quan trọng, được kỳ vọng sẽ làm thay đổi toàn diện kinh tế Việt Nam trong thập kỷ tới. Cùng với đó, các chính sách ưu đãi về đất đai, thuế, cải thiện môi trường kinh doanh... tiếp tục được thực hiện để thu hút đầu tư nước ngoài nhằm giải quyết vấn đề việc làm và phục vụ mục tiêu xuất khẩu của đất nước. Những năm gần đây, kinh tế vĩ mô của Việt Nam đã được cải thiện nhưng vẫn tồn tại những rủi ro và thách thức nhất định. Nhìn vào những con số và thực tế nền kinh tế thì thấy, tốc độ tăng trưởng GDP đang có xu hướng giảm dần qua các thời kỳ, từ 7,41% trong giai đoạn 1990-1999, xuống còn 7,27% trong giai đoạn 2000-2009, 6,3% trong giai đoạn 2010-2019 và 5,14% kể từ năm 2020 đến nay. Nguyên nhân do mô hình tăng trưởng dựa vào vốn và xuất khẩu đang chạm ngưỡng do năng suất biên của vốn giảm dần. Ngoài ra, việc thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực chế biến, chế tạo hướng ra xuất khẩu cũng đang gặp thách thức lớn khi căng thẳng thương mại gia tăng trên toàn cầu. Các nước có xu hướng áp đặt thuế quan và các rào cản thương mại khiến những quốc gia có độ mở thương mại và đầu tư lớn như Việt Nam trở nên dễ bị tổn thương hơn. Ông có thể phân tích sâu hơn về những bất cập trong chính sách tài khóa và tiền tệ, cũng như hướng cải thiện? Khác với nhiều nền kinh tế trên thế giới, chính sách tiền tệ của Việt Nam đang phải “gánh” đa mục tiêu, cùng với kiểm soát lạm phát và ổn định giá trị tiền đồng, đôi khi chính sách này còn phải hỗ trợ tăng trưởng thông qua các kênh thúc đẩy/định hướng tín dụng và hỗ trợ lãi suất, thậm chí là “hỗ trợ” cho chính sách tài khóa trong việc phát hành trái phiếu chính phủ. Điều này dẫn đến thông điệp chính sách thiếu nhất quán, gây tâm lý bất an cho nhà đầu tư và người dân. Để cải thiện, theo tôi, cần tăng cường tính độc lập của Ngân hàng Nhà nước, được toàn quyền theo đuổi mục tiêu lạm phát (khoảng 3% - 4%) và ổn định tỷ giá mà không chịu chi phối từ các yêu cầu ngắn hạn của Chính phủ, như ưu tiên tăng trưởng tín dụng. Ngoài ra, việc can thiệp tiền tệ hiện nay còn mang nặng tính hành chính, đôi khi không tuân theo quy luật thị trường. Công cụ chính sách tiền tệ có tác động thực sự tới thị trường lại là “hạn mức tăng trưởng tín dụng” - mang nặng tính “xin - cho” giữa Ngân hàng Nhà nước với các tổ chức tín dụng. Chất lượng tín dụng và đích đến của dòng vốn còn chưa hiệu quả, tiến độ triển khai các chuẩn mực quốc tế về an toàn hệ thống ngân hàng còn chậm, nợ xấu có nguy cơ gia tăng và khó xử lý. Tất cả điều này tạo thêm thách thức cho việc nới lỏng chính sách tiền tệ để hỗ trợ tăng trưởng, nên cần những thay đổi và cải thiện hiệu quả hơn. Về chính sách tài khóa, sự bất hợp lý thể hiện ở cơ cấu chi, với chi thường xuyên chiếm tỷ trọng lớn, giải ngân đầu tư công chậm và tỷ lệ thu ngân sách/GDP đang ở mức khá cao. Điều này cho thấy, dư địa tài khóa dành cho hàng loạt các dự án đầu tư quy mô lớn là rất hạn chế, đòi hỏi phải có nguồn thu mới bền vững và tái cơ cấu chi tiêu hiệu quả hơn. Theo đó, Việt Nam cần thực hiện đồng thời nhiều giải pháp quan trọng, cần thu hẹp đáng kể chi thường xuyên của bộ máy nhà nước. Việc nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy, tinh giản biên chế và kiểm soát chặt chẽ các khoản chi kém hiệu quả sẽ tiết kiệm được một lượng vốn lớn, có thể tái phân bổ cho đầu tư phát triển hạ tầng. Việt Nam cần tích cực tìm kiếm các nguồn thu bền vững mới để thay thế một phần cho các nguồn thu truyền thống. Chẳng hạn, Việt Nam nên cân nhắc đánh thuế căn nhà thứ hai trở đi bởi nhiều lợi ích mà sắc thuế này có thể đem lại. Với xu hướng chuyển từ mô hình tăng trưởng dựa vào xuất khẩu sang dẫn dắt bởi đầu tư công, ông nhận thấy đâu là những vấn đề còn gây thách thức? Việt Nam đang đặt mục tiêu tăng trưởng GDP cao, ít nhất là 8% cho năm 2025 và hai con số trong những năm tiếp theo, nhằm đưa nền kinh tế từ một nước thu nhập trung bình hiện nay trở thành một nước thu nhập cao vào năm 2045. Vì thế, Việt Nam đang có xu hướng chuyển sang mô hình tăng trưởng dẫn dắt bởi đầu tư công trong bối cảnh căng thẳng thương mại toàn cầu gia tăng. Tuy nhiên, điều này cần các chính sách đồng bộ để nâng cao hiệu quả chi tiêu công, thực hiện sự dịch chuyển hợp lý giữa các khoản chi và khai thác các nguồn thu mới bền vững thay thế cho các nguồn thu kém bền vững hoặc đang làm giảm động lực sản xuất và tiêu dùng. Nếu không làm được, việc tăng mạnh chi tiêu công rất dễ khiến nền kinh tế Việt Nam đối mặt với nguy cơ thâm hụt ngân sách cao, bất ổn vĩ mô và thậm chí rơi vào khủng hoảng. Thêm vào đó, với dư địa chính sách tiền tệ hạn chế và tỷ lệ tín dụng/GDP đã ở mức cao, việc cố gắng mở rộng tiền tệ để kích thích đầu tư có thể gây ra lạm phát và bong bóng giá tài sản, tạo áp lực lên tỷ giá hối đoái, khiến dòng vốn không đi vào sản xuất và làm suy yếu ổn định kinh tế vĩ mô. Do vậy, Việt Nam phải chọn lọc được các dự án đầu tư công một cách hiệu quả, chủ yếu là các dự án cơ sở hạ tầng trọng điểm, đồng thời cải thiện hệ thống giáo dục và đào tạo để nâng cao kỹ năng cho người lao động, đáp ứng nhu cầu của các ngành kinh tế đang phát triển và thu hút đầu tư nước ngoài chất lượng cao. Ngoài ra, Việt Nam cần khắc phục tình trạng giải ngân đầu tư công chậm, sử dụng chính sách thuế để khuyến khích phát triển công nghiệp phụ trợ để tăng tỷ lệ nội địa hóa, giảm phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu. Việt Nam cũng cần phải khuyến khích được khu vực tư nhân tham gia các dự án công - tư (PPP) để tận dụng hiệu quả quản lý và công nghệ của họ. Trong các định hướng về phát triển kinh tế bền vững, ông đánh giá thế nào về vai trò của khu vực tư nhân? Khu vực tư nhân Việt Nam đang đóng góp một tỷ trọng lớn trong GDP, thu ngân sách nhà nước, cũng như sử dụng lao động, nhưng tiềm năng còn lớn hơn nhiều. Tuy nhiên, khu vực này còn gặp không ít khó khăn, chẳng hạn như khó tiếp cận vốn, thiếu liên kết với doanh nghiệp FDI, môi trường kinh doanh còn nhiều bất cập… Vừa qua, Đảng, Quốc hội và Chính phủ đã ban hành các nghị quyết về phát triển kinh tế tư nhân, với việc xác định đây là lực lượng quan trọng thúc đẩy đổi mới sáng tạo, nâng cao năng suất lao động, gia tăng năng lực cạnh tranh quốc gia, góp phần xóa đói, giảm nghèo, ổn định đời sống xã hội. Vì thế, các cơ quan liên quan cần chuyển các nghị quyết thành hành động cụ thể, bằng các văn bản quy phạm pháp luật, hướng dẫn cụ thể để các doanh nghiệp tư nhân được hưởng thụ, đóng góp vào sự phát triển chung của nền kinh tế. Cũng về doanh nghiệp, hiện nước ta đang duy trì một số lượng lớn doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong nhiều lĩnh vực, kể cả những ngành mà sự tham gia của Nhà nước là không cần thiết. Thực trạng này đặt ra nhiều thách thức khi nhiều doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả, gây lãng phí nguồn lực quốc gia. Đã đến lúc Việt Nam cần mạnh dạn thoái vốn khỏi các doanh nghiệp nhà nước không hiệu quả, không cần thiết, để dành nguồn lực đầu tư vào các dự án trọng điểm quốc gia mang tính động lực, có khả năng tạo ra giá trị kinh tế và xã hội cao hơn. Bên cạnh đó, nguồn thu từ việc thoái vốn cũng có thể được sử dụng để tham gia cùng các doanh nghiệp tư nhân vào các dự án trọng điểm thông qua hợp tác công - tư (PPP). Làm thế nào để thu hẹp khoảng cách giữa chủ trương và thực thi chính sách nhằm đảm bảo các giải pháp kinh tế vĩ mô được triển khai hiệu quả, thưa ông? Khoảng cách giữa chủ trương và thực thi là nhược điểm lâu nay của Việt Nam. Chủ trương thì đúng, nhưng khi triển khai cụ thể thì thiếu sự chặt chẽ, thiếu đồng bộ. Nhiều chính sách đưa ra rất hợp lý nhưng khi thực hiện lại gặp nhiều vướng mắc, dẫn đến hiệu lực không cao. Do vậy, điều cần thiết bây giờ là tập trung tháo gỡ những nút thắt trong quá trình thực thi để chính sách thực sự đi vào cuộc sống, thay vì chỉ dừng lại trên giấy tờ hay trong các văn bản chỉ đạo. Việc thực thi cần được theo dõi sát sao hơn, đó là cần có một bộ phận chuyên trách để giám sát, phản ứng nhanh, tiếp nhận thông tin phản ánh từ doanh nghiệp và người dân. Các phản ánh này phải được tổng hợp định kỳ, để nắm bắt kịp thời những vướng mắc, rủi ro trong quá trình triển khai. Trên cơ sở đó, Nhà nước cần đưa ra phản ứng chính sách nhanh chóng, kịp thời, đồng thời giao nhiệm vụ cụ thể cho từng cơ quan, từng bộ phận có trách nhiệm giải quyết. Cùng với đó là cần đẩy mạnh cải cách thể chế, đơn giản hóa thủ tục hành chính, tăng cường tính minh bạch, dễ dự đoán của chính sách để doanh nghiệp an tâm đầu tư dài hạn. Trân trọng cảm ơn những chia sẻ của ông! Hương Dịu (thực hiện) (Theo Tạp chí Nghiên cứu Khoa học kiểm toán, tháng 6/2025)

Sửa toàn diện Luật Quy hoạch để đáp ứng nhu cầu phát triển mới

GS.TS Hoàng Văn Cường, đại biểu Quốc hội khoá 15, nguyên Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế Quốc dân cho rằng sau hơn 7 năm thực thi, Luật Quy hoạch năm 2017 (có hiệu lực từ đầu năm 2019) đã mang lại nhiều kết quả tích cực song cũng phát sinh nhiều mâu thuẫn, bất cập trong triển khai. Do đó, việc tiếp tục nghiên cứu để sửa đổi toàn diện Luật tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa 15 vào tháng 10/2025 là cần thiết để đáp ứng nhu cầu phát triển đất nước trong bối cảnh mới. GS.TS Hoàng Văn Cường, đại biểu Quốc hội khoá XV, nguyên Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Ông đánh giá như thế nào về việc thực hiện Luật Quy hoạch năm 2017? Phải khẳng định rằng Luật Quy hoạch ra đời là bước ngoặt quan trọng trong công tác quy hoạch của Việt Nam với điểm mấu chốt là xóa bỏ tình trạng TAÏP CHÍ NGHIEÂN CÖÙU KHOA HOÏC KIEÅM TOAÙN Số 213 | tháng 7/2025 | 59 quy hoạch trở thành “lãnh địa riêng”, thiếu sự liên thông, thậm chí là rào cản của quá trình phát triển của từng ngành, lĩnh vực. Luật Quy hoạch năm 2017 đặt yêu cầu về viêc lập quy hoạch tích hợp, bắt buộc các ngành, lĩnh vực phải phối hợp, liên kết với nhau để lập quy hoạch. Nhờ đó, số lượng quy hoạch từ cấp thấp đến cấp cao giảm đến 97%. Ở mỗi cấp điều hành chỉ có một quy hoạch duy nhất. Đây là bước tiến quan trọng, tạo ra bức tranh tổng thể, đồng bộ về quy hoạch. Luật Quy hoạch năm 2017 hướng tới mục tiêu xây dựng hệ thống quy hoạch quốc gia thống nhất, đồng bộ, đa ngành và liên kết vùng. Đây là một trong những đạo luật then chốt để thể chế hóa các chiến lược phát triển và điều phối không gian quốc gia một cách hiệu quả. Trước khi Luật Quy hoạch ra đời, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật quy định về lập, thẩm định, phê duyệt và tổ chức thực hiện quy hoạch gồm có 53 luật, 07 pháp lệnh, 62 nghị định (không kể các văn bản luật, pháp lệnh và nghị định được điều chỉnh, bổ sung), ngoài ra còn có một số luật, pháp lệnh và nghị định có quy định về chấp hành, thực hiện theo quy hoạch. Luật Quy hoạch năm 2017 đã tạo dựng hệ thống quy hoạch quốc gia thống nhất, góp phần thay đổi cơ bản tư duy, phương pháp và nội dung hoạt động quy hoạch theo hướng phù hợp hơn với kinh tế thị trường và thông lệ quốc tế, gắn kết chặt chẽ hơn chu trình chiến lược - quy hoạch - kế hoạch - đầu tư, tăng cường sự liên kết phát triển, đặc biệt là liên kết vùng, thúc đẩy các mục tiêu phát triển đất nước. Theo ông, đâu là những điểm hạn chế, bất cập trong quá trình triển khai Luật Quy hoạch? Qua nhiều năm triển khai Luật Quy hoạch, công tác quy hoạch ngày càng đóng vai trò quan trọng, giúp Nhà nước hoạch định, kiến tạo các động lực phát triển mới; không gian phát triển quốc gia từng bước được tổ chức hiệu quả, thống nhất trên quy mô toàn quốc. Việc triển khai công tác quy hoạch theo cách tiếp cận tổng hợp, đa ngành đã có sự thay đổi rõ rệt về tư duy, nhận thức và hành động của các ngành, các địa phương theo hướng chủ động phối hợp trong quá trình lập quy hoạch và tăng cường liên kết phát triển. Tuy nhiên, do lần đầu tiên triển khai Luật Quy hoạch với các nội dung mới nên vẫn còn nhiều điểm chưa đạt được đồng thuận, thiếu sự đồng bộ trong thực thi. Trong quá trình triển khai Luật Quy hoạch, nhiều địa phương, bộ, ngành đã gặp không ít vướng mắc do các quy định còn chưa rõ ràng, thiếu tính liên kết giữa các loại quy hoạch, hoặc chưa có cơ chế xử lý hiệu quả khi phát sinh xung đột giữa các quy hoạch cùng cấp hoặc khác cấp. Bên cạnh đó, một số nội dung chưa được quy định cụ thể, một số nội dung không còn phù hợp với giai đoạn phát triển mới nên cần sửa đổi để tạo sự thống nhất và hiệu quả trong triển khai. Để Luật Quy hoạch (sửa đổi) phát huy tốt hiệu quả trong công tác quy hoạch đất nước, cần sửa đổi những điểm nào, thưa ông? Yếu tố quan trọng trước hết là làm rõ nội dung về quy hoạch tích hợp với yêu cầu về tính đồng bộ. Theo đó, có thể thực hiện quy hoạch tích hợp theo quy trình là quy hoạch cấp trên mang tính định hướng với các chỉ tiêu cụ thể, sau đó cấp dưới cụ thể hóa định hướng đó và đề xuất điều chỉnh những điểm chưa hợp lý (nếu có). Sau đó, cấp trên tổng hợp, tiếp thu và ấn định để cấp dưới triển khai. Cách làm này sẽ giải quyết tình trạng mâu thuẫn giữa các quy hoạch và có thể phê duyệt đồng thời hoặc lần lượt các quy hoạch. Bên cạnh đó, Luật Quy hoạch (sửa đổi) cần thể hiện rõ tính phân tầng trong quy hoạch giữa quy hoạch quốc gia và quy hoạch chuyên ngành theo hướng khẳng định “hệ thống quy hoạch quốc gia là định hướng chung, quy hoạch ngành được thực hiện theo định hướng quy hoạch quốc gia”. Tư vấn quy hoạch cũng là vấn đề cần quy định rõ tại Luật sửa đổi. Theo đó, để quy hoạch phát huy tiềm năng của vùng, lĩnh vực theo tầm nhìn dài hạn hàng chục, hàng trăm năm thì quy hoạch cần được thực hiện bởi nhân sự và đơn vị tư vấn có chuyên môn sâu và tầm nhìn chiến lược. Việc huy động được các đơn vị tư vấn chuyên nghiệp thực hiện quy hoạch còn giúp tránh được tình trạng quy hoạch trở thành ý chí của những nhà lãnh đạo đương thời, dẫn đến tư duy nhiệm kỳ trong quy hoạch. Để làm được điều đó thì cơ quan tư vấn quy hoạch phải là đơn vị chuyên môn độc lập, lập quy hoạch dựa trên cơ sở khoa học, tính toán phân bổ nguồn lực theo định hướng phát triển hiệu quả và bền vững. Một điểm đáng lưu ý khác là quy hoạch ở cấp dưới phải được cấp trên phê duyệt để tạo sự thống nhất, đồng bộ và có tính liên kết giữa các quy hoạch. Chẳng hạn, quy hoạch tỉnh thì cần được Thủ tướng phê duyệt hoặc Thủ tướng ủy quyền cho một cơ quan có góc nhìn tổng thể để phê duyệt. Tuy nhiên, kế hoạch triển khai quy hoạch phải được phân cấp cho địa phương phê duyệt và thực hiện. Ở khía cạnh khác, cần đưa định hướng ưu tiên đầu tư trong quy hoạch thay cho danh mục dự án ưu tiên. Bởi lẽ, danh mục dự án ưu tiên là liệt kê dự án với quy mô, tính chất, điều kiện cụ thể nên không đảm bảo tầm nhìn tổng quát. Thay vào đó, việc đưa ra định hướng ưu tiên tại Luật sẽ có tính định hướng cho việc triển khai thành nhiều dự án cụ thể. Xin cảm ơn ông! Hà My (thực hiện) (Theo Tạp chí Nghiên cứu Khoa học kiểm toán, tháng 7/2025)

Tạo nền tảng cho kinh tế tăng tốc những tháng cuối năm

(khoahockiemtoan.vn) - Trong những tháng còn lại của năm 2024, kinh tế Việt Nam còn phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức từ biến động địa chính trị trên thị trường thế giới. Vì thế, TS. Trần Thị Hồng Minh, Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM), cho rằng trên những nền tảng đã có, nếu tận dụng tốt cơ hội và duy trì đà tăng trưởng thì Việt Nam có thể hoàn thành mục tiêu tăng trưởng kinh tế.   Những tháng đầu năm đã qua, bà đánh giá như thế nào về thực trạng kinh tế Việt Nam? Kinh tế Việt Nam đã và đang phải đối mặt với những thuận lợi đan xen với khó khăn, thách thức từ bối cảnh quốc tế với những biến động khó lường, phức tạp từ xung đột quân sự, biến động chính trị, bất ổn kéo dài tại một số quốc gia, khu vực. Trong bối cảnh ấy, Việt Nam vẫn đạt những kết quả quan trọng về phát triển kinh tế - xã hội, tháng sau tích cực hơn tháng trước, quý sau tốt hơn quý trước. Theo đó, tổng sản phẩm trong nước (GDP) quý II/2024 tăng trưởng tích cực, với tốc độ tăng ước đạt 6,93% so với cùng kỳ năm trước, chỉ thấp hơn tốc độ tăng 7,99% của quý II/2022 trong các quý II của giai đoạn 2020-2023. GDP 6 tháng đầu năm 2024 tăng 6,42%, chỉ thấp hơn tốc độ tăng 6,58% của sáu tháng đầu năm 2022 trong giai đoạn 2020-2024. Qua 7 tháng đầu năm 2024, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiểm soát khi bình quân 7 tháng năm 2024, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng 4,12% so với cùng kỳ năm trước và lạm phát cơ bản tăng 2,73%. Đáng lưu ý, việc điều chỉnh lương cơ sở đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang từ 01/7/2024 chưa gây áp lực đáng kể đối với diễn biến giá cả trong tháng 7. Việt Nam tiếp tục là điểm sáng của cải cách và hội nhập kinh tế. Các giải pháp cơ cấu lại nền kinh tế, phát triển vùng, cải thiện môi trường kinh doanh, tăng năng suất lao động, phát triển các mô hình kinh tế mới (kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn) đã giúp thúc đẩy các ngành kinh tế tăng trưởng. Chẳng hạn, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp 7 tháng năm 2024 ước tính tăng 8,5% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số Nhà quản trị mua hàng (PMI) tháng 7 tiếp tục duy trì ở mức 54,7, bằng với tháng trước đó. Du lịch cũng có sự phục hồi tích cực khi khách quốc tế đến nước ta đạt gần 10 triệu lượt người, còn số khách du lịch trong nước cũng đạt 79,5 triệu lượt. Hoạt động kinh tế đối ngoại diễn ra sôi động. Tổng vốn đăng ký cấp mới, điều chỉnh và góp vốn mua cổ phần, mua phần vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài đạt hơn 18 tỷ USD trong 7 tháng đầu năm, tăng 10,9% so với cùng kỳ năm 2023. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện trong 7 tháng đầu năm đạt 12,55 tỷ USD, tăng 8,4%. Điều này cho thấy các nhà đầu tư nước ngoài duy trì niềm tin và sự lạc quan với thị trường Việt Nam. Bên cạnh đó, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa đạt 440,45 tỷ USD, tăng 17,2% trong 7 tháng năm 2024, cán cân thương mại hàng hóa xuất siêu 14,53 tỷ USD. Hơn nữa, khu vực kinh tế trong nước đã đạt tăng trưởng xuất khẩu cao hơn so với khu vực đầu tư nước ngoài, cho thấy năng lực thích ứng và tận dụng cơ hội của cộng đồng doanh nghiệp trong nước. Cùng những kết quả đạt được, xin bà cho biết cụ thể hơn về những khó khăn và thách thức từ bên ngoài và nội tại nền kinh tế? Triển vọng kinh tế thế giới còn nhiều khó khăn, bất định. Một số nền kinh tế chủ chốt giữ lãi suất điều hành ở mức cao nhằm kiềm chế lạm phát. Cạnh tranh chiến lược về khoa học, công nghệ, thương mại giữa các nền kinh tế lớn, đặc biệt là giữa Mỹ và Trung Quốc, vẫn diễn ra gay gắt, phức tạp. Thiên tai, bão lũ, biến đổi khí hậu tiềm ẩn rủi ro tác động đến nguồn cung và giá cả lương thực, hàng hóa thế giới… Nhiều thị trường quốc tế đã gia tăng quy định nhằm thúc đẩy phát triển bền vững, phát triển các chuỗi giá trị giảm phát thải các-bon. Không ít thị trường gia tăng các biện pháp phòng vệ đối với hàng hóa nhập khẩu. Theo đó, khả năng thâm nhập của hàng Việt Nam xuất khẩu cũng bị ảnh hưởng. Việt Nam cũng cần lưu tâm hơn ở một số lĩnh vực, quy định trong nước. Chẳng hạn, cải cách môi trường kinh doanh chưa tương xứng với những kỳ vọng đặt ra, giải ngân tín dụng tương đối chậm; chi phí của một số hàng hóa, dịch vụ đầu vào chịu áp lực tăng tạo áp lực lên lạm phát. Đáng lưu ý, tác động từ tăng lương cơ sở và tăng lương tối thiểu vùng có thể gây ra lạm phát “chi phí đẩy” nếu không theo dõi, đánh giá sát và có giải pháp kịp thời, đồng bộ. Bên cạnh đó, số lượng doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường tăng nhanh hơn số doanh nghiệp thành lập mới trong 7 tháng đầu năm. Trong khi đó, dù đã có nhiều giải pháp chính sách, năng suất lao động chưa được cải thiện ở mức tương xứng. Khả năng kết nối giữa khối doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) còn chậm được cải thiện, qua đó ảnh hưởng đến khả năng đóng góp và hưởng lợi từ xuất khẩu của các doanh nghiệp trong nước. Nhận thức và năng lực chuyển đổi của doanh nghiệp để thích ứng với các xu hướng mới như chuyển đổi số, chuyển đổi xanh còn tương đối hạn chế. Đâu sẽ là nền tảng để nền kinh tế Việt Nam chống chịu với những khó khăn nêu trên, thưa bà? Những kết quả khả quan về kinh tế - xã hội những tháng đầu năm là cơ sở để Chính phủ và cộng đồng doanh nghiệp gia tăng nỗ lực hơn trong các tháng cuối năm. Cần tiếp tục duy trì khung chính sách bài bản về nền tảng ổn định kinh tế vĩ mô, nỗ lực cải cách thể chế kinh tế để mở rộng không gian phát triển cho cộng đồng doanh nghiệp, cải thiện năng suất lao động, bảo đảm các cân đối lớn và bảo đảm an sinh xã hội. Cần lưu ý, Việt Nam cũng đã có những nền tảng quan trọng từ “đổi mới tư duy”. Chính phủ đã quyết liệt chỉ đạo tháo gỡ không ít rào cản về mặt thể chế, chính sách nhằm mở rộng không gian kinh tế, giảm chi phí không cần thiết cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Các quy hoạch được phê duyệt đã lồng ghép những tư duy mới, gắn với phát triển các mô hình kinh tế mới như kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn... Chuyển đổi số, chuyển đổi xanh có sự gắn kết tương hỗ với nhau và đều ưu tiên thực hiện khẩn trương. Nhờ đó, Việt Nam đang được cộng đồng quốc tế đánh giá cao về tư duy cải cách. Xin thông tin thêm, với vai trò đại diện của Việt Nam (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) tại Ủy ban Kinh tế APEC, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương đang chủ trì, phối hợp với các đối tác xây dựng chương trình cải cách cơ cấu mới cho APEC giai đoạn 2026-2030. Trên nền tảng ấy, nếu tận dụng tốt cơ hội từ đà phục hồi của kinh tế thế giới và theo dõi, xử lý hiệu quả các khó khăn, bất định từ bên ngoài, Việt Nam có thể hoàn thành vượt mức mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2024. Bà khuyến nghị như thế nào để nền kinh tế nước ta tiếp tục có những bước phát triển hiệu quả trong thời gian tới? Việt Nam cần quyết liệt hơn trong cải cách thể chế kinh tế, qua đó giúp phát huy hiệu quả tối đa nội lực của nền kinh tế, để nền kinh tế vươn mình tận dụng những thời cơ phát triển mới. Cần nhấn mạnh, thể chế chính là một nguồn lực, thậm chí là “chìa khóa” quan trọng. Việt Nam cần cân nhắc một số định hướng chính sách nhằm “làm mới” động lực cải cách thể chế, tạo thuận lợi và tăng giá trị cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Chẳng hạn như đẩy nhanh cải cách môi trường kinh doanh, đơn giản hóa các điều kiện kinh doanh và thủ tục hành chính; hoàn thiện thể chế liên kết vùng, nhằm tạo động lực cho liên kết giữa các địa phương và doanh nghiệp ở các địa phương theo tư duy chuỗi giá trị để “cùng đổi mới, cùng liên kết, cùng hợp tác, cùng thắng, cùng phát triển”. Song song với đó là rà soát, hoàn thiện khung chính sách để mở rộng không gian phát triển cho các mô hình kinh tế mới như kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế ban đêm, kinh tế sáng tạo… Cùng với đó cần tập trung tháo gỡ các khó khăn về tiếp cận các thị trường xuất khẩu, đẩy nhanh tạo thuận lợi thương mại, khuyến khích đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, tận dụng tối đa hiệu quả các hiệp định thương mại tự do (FTA), tìm kiếm và khai thác hiệu quả các thị trường ngách, kể cả thông qua nền tảng số hóa và thử nghiệm phát triển khu thương mại tự do. Các cơ quan quản lý cần nhanh chóng hoàn thiện và triển khai hiệu quả khung chính sách cải thiện năng suất lao động, gắn với tăng kỹ năng và chuyển đổi kỹ năng cho người lao động để thích ứng với các mô hình kinh tế mới; đồng thời thúc đẩy chuyển giao công nghệ từ doanh nghiệp FDI sang khu vực doanh nghiệp trong nước. Bên cạnh đó, cần tiếp tục theo dõi, đánh giá, dự báo sát tình hình kinh tế thế giới và trong nước với các kịch bản đủ chi tiết, tính đến những rủi ro chiến tranh thương mại, gia tăng phòng vệ ở các thị trường xuất khẩu, xu hướng dịch chuyển đầu tư nước ngoài... để kiến nghị phương án, giải pháp phù hợp, qua đó củng cố ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn và tạo nền tảng quan trọng cho cải cách, hội nhập và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Xin trân trọng cảm ơn bà! Hương Dịu (thực hiện)

Bỏ hạn mức tín dụng, cần tăng cường các công cụ kiểm soát rủi ro hiệu quả

Tại Công điện số 159/CĐ-TTg ngày 07/9/2025 về định hướng chỉ đạo, điều hành chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính yêu cầu Ngân hàng Nhà nước xây dựng có lộ trình và thí điểm việc gỡ bỏ biện pháp giao chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng để thực hiện từ năm 2026. Theo PGS.TS. Nguyễn Hữu Huân, giảng viên Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, hạn mức tín dụng đã được Ngân hàng Nhà nước áp dụng trong 14 năm nên cũng cần dỡ bỏ biện pháp hành chính này để phù hợp theo cơ chế thị trường song cần các giải pháp kiểm soát rủi ro hiệu quả. Ông đánh giá như thế nào về việc áp dụng hạn mức tín dụng từ năm 2011 đến nay? Bản chất của hạn mức tín dụng là một công cụ hành chính, giúp kiểm soát lạm phát tốt hơn. Công cụ này đóng vai trò như một van điều tiết dòng vốn chảy vào nền kinh tế, khi chảy quá mạnh thì có thể khóa ngay được. Công cụ hạn mức tín dụng được áp dụng từ năm 2011 sau giai đoạn tăng trưởng tín dụng nóng vào các năm trước đó. Việc áp dụng này nhằm hạn chế tình trạng tín dụng tăng trưởng quá mức, tránh rủi ro cho hệ thống ngân hàng khi các chuẩn mực về an toàn vốn chưa được phổ biến rộng rãi, đồng thời dần chuyển sang các biện pháp điều hành dựa trên các chỉ tiêu an toàn theo chuẩn mực quốc tế. Từ đó, đảm bảo an toàn hoạt động của hệ thống ngân hàng, góp phần kiểm soát lạm phát, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, ổn định vĩ mô. Tuy nhiên, công cụ này có hai mặt. Về mặt tích cực, hạn mức tín dụng tạo ra một cơ chế ngắt mạch nhanh và hiệu quả. Về mặt hạn chế, công cụ này mang tính hành chính và sự linh hoạt không cao. Ví dụ, hạn mức tín dụng được Ngân hàng Nhà nước giao cho các ngân hàng là 15%, dù nhu cầu nền kinh tế thấp nhưng các ngân hàng vẫn đẩy tín dụng lên 15%, như vậy, dòng vốn sẽ chảy vào các kênh đầu cơ. Ngược lại, khi nhu cầu nền kinh tế cao hơn mức 15% nhưng tăng trưởng tín dụng lại bị siết chỉ ở mức này thì rõ ràng dẫn đến tình trạng nền kinh tế bị thiếu vốn. Do đó, tùy vào mục tiêu nới lỏng hay thắt chặt tiền tệ, nếu không dùng hạn mức tín dụng, Ngân hàng Nhà nước vẫn có thể dùng các công cụ thị trường khác để điều hành như lãi suất chính sách, nghiệp vụ thị trường mở thông qua việc Ngân hàng Nhà nước thực hiện mua, bán giấy tờ có giá với các thành viên, tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Ví dụ, muốn nới lỏng và hỗ trợ vốn cho doanh nghiệp thì khi không có hạn mức tín dụng, Ngân hàng Nhà nước vẫn có thể bơm tiền ra bằng nghiệp vụ thị trường mở. Đến nay, khi hệ thống ngân hàng đã phát triển tích cực, chủ trương bỏ hạn mức tín dụng gắn với việc Ngân hàng Nhà nước chủ động điều hành lãi suất theo tín hiệu thị trường là hoàn toàn xác đáng và hợp lý, thúc đẩy hệ thống tài chính Việt Nam theo thông lệ quốc tế. Theo ông, việc bỏ hạn mức tín dụng từ năm 2026 có hợp lý không? Việc bỏ hạn mức tín dụng nên chọn thời điểm phù hợp, có lộ trình để tránh rủi ro. Bài học từ giai đoạn 2007-2010 vẫn còn nguyên giá trị, lạm phát tăng vọt khi tín dụng chảy quá nhiều ra nền kinh tế với mức tăng trưởng lên đến 25%-28%/năm. Việc bỏ hạn mức tín dụng ở thời điểm này sẽ giúp các ngân hàng thương mại có thể cho vay chủ động hơn nhưng nếu không kiểm soát tốt sẽ dễ đẩy tăng trưởng tín dụng lên quá cao, ảnh hưởng đến lạm phát cũng như tạo ra những rủi ro cho ổn định vĩ mô. Xét ở khía cạnh khác, Ngân hàng Nhà nước vẫn có thể kiểm soát được dòng vốn chảy ra nền kinh tế bằng các công cụ thị trường như nêu trên. Chẳng hạn, khi lãi suất thực sự được vận hành theo cơ chế thị trường sẽ trở thành công cụ chủ đạo để điều tiết chi phí vốn, định hướng tín dụng vào các khu vực hiệu quả, giảm thiểu rủi ro phát sinh từ tín dụng dễ dãi. Việc xác định lộ trình phù hợp liên quan đến tính sẵn sàng của hệ thống và mức độ hiệu quả của các công cụ thị trường. Nếu hiệu quả rồi thì việc bỏ hạn mức tín dụng sẽ không ảnh hưởng quá nhiều. Nhưng, nếu bỏ hạn mức tín dụng trong khi các công cụ của chính sách tiền tệ theo thị trường chưa thực sự hiệu quả thì cần cân nhắc, đặc biệt trong bối cảnh tình hình thế giới diễn biến khá phức tạp và khó lường. Nhìn chung, khi bỏ hạn mức tín dụng thì các ngân hàng sẽ được chủ động hơn trong việc sử dụng nguồn vốn, bỏ được cơ chế xin - cho. Tùy vào năng lực mà mỗi ngân hàng có thể phát triển nguồn vốn theo khả năng và không bị ảnh hưởng bởi công cụ hành chính. Ngân hàng Nhà nước sẽ giám sát bằng hệ số quản trị rủi ro của các ngân hàng. Những ngân hàng nào có hệ số tốt thì được cho vay trên tỷ lệ vốn nhiều hơn và ngược lại. Bên cạnh việc bỏ hạn mức tín dụng, cần các giải pháp gì để kiểm soát rủi ro trong hệ thống và nền kinh tế, thưa ông? Việc bỏ hạn mức tín dụng là cần thiết song cũng phải rút kinh nghiệm từ bài học lịch sử giai đoạn trước dẫn đến lạm phát ở mức cao. Kinh nghiệm thế giới cho thấy, cơ quan điều hành sẽ cần xây dựng các mô hình, hệ thống cảnh báo sớm, dự báo chính xác về lạm phát, về tăng trưởng kinh tế và các yếu tố vĩ mô khác. Chẳng hạn ở Mỹ có hệ thống cơ sở dữ liệu kinh tế và tài chính (FRED), tập hợp hàng trăm nghìn chuỗi dữ liệu kinh tế, tài chính, và xã hội từ nhiều nguồn như Cục Thống kê Lao động, Cục Phân tích Kinh tế, Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Ngân hàng Thế giới… nhằm hỗ trợ nghiên cứu và hoạch định chính sách. Trên cơ sở phân tích dữ liệu, cơ quan điều hành có thể đưa ra dự báo lạm phát trong tương lai để thắt chặt tiền tệ từ sớm, không đợi lạm phát xảy ra mới thắt chặt, lúc đó sẽ quá muộn do chính sách tiền tệ luôn có độ trễ. Khi có hệ thống dự báo chính xác thì việc điều hành chính sách tiền tệ sẽ đạt hiệu quả cao hơn. Ngoài ra, để kiểm soát tốt rủi ro khi bỏ hạn mức tín dụng, hệ thống ngân hàng cần được bổ sung các biện pháp quản lý tiên tiến, kết hợp với việc ứng dụng mạnh mẽ công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn (big data), nâng chuẩn quản trị rủi ro, hoàn thiện các quy định an toàn và tiếp tục duy trì sự giám sát chủ động từ Ngân hàng Nhà nước. Một điều quan trọng là vai trò truyền thông chính sách, tránh đưa ra thông điệp cho rằng đây là tín hiệu nới lỏng tiền tệ, vô hình trung đẩy kỳ vọng lạm phát. Trân trọng cảm ơn ông! Lê Hường (thực hiện) (Theo Tạp chí Nghiên cứu Khoa học kiểm toán, tháng 9/2025)

Cần triển khai hiệu quả các chính sách hỗ trợ tăng trưởng

Ông Sacha Dray, Chuyên gia Kinh tế của Ngân hàng Thế giới (WB), cho rằng tăng trưởng kinh tế Việt Nam đã đạt kết quả tích cực trong nửa đầu năm nay song vẫn còn nhiều thách thức trong những tháng cuối năm, chủ yếu do sự bất định từ môi trường kinh tế bên ngoài. Do đó, cần các giải pháp hiệu quả để cải thiện hoạt động của doanh nghiệp và tiếp tục thúc đẩy giải ngân đầu tư công. Theo ông, kinh tế Việt Nam từ đầu năm đến nay có điểm gì nổi bật? Trong nửa đầu năm 2025, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam khả quan, đạt mức 7,5%, cao hơn so với khu vực, vượt xa các nền kinh tế lớn của ASEAN như Thái Lan, Philippines, Indonesia, Malaysia. Tăng trưởng GDP của Việt Nam tăng cao nhờ xuất khẩu tăng mạnh do các doanh nghiệp đang đẩy mạnh đơn hàng xuất đi trong bối cảnh bất định về chính sách thương mại toàn cầu. Tăng trưởng trên có được là nhờ xuất khẩu tăng lên đến 14,2% trong nửa đầu năm 2025 (so cùng kỳ), bao gồm xuất khẩu hàng hóa sang Hoa Kỳ tăng mạnh, lên đến 28,3%, trước dự kiến thuế quan gia tăng trong thời gian tới. Nhập khẩu cũng tăng 16,0% trong nửa đầu năm 2025 (so cùng kỳ) để đáp ứng nhu cầu sản xuất để đảm bảo tiến độ xuất khẩu. Tăng trưởng đầu tư theo giá so sánh đạt 8,0% (so cùng kỳ), so với 6,7% trong nửa đầu năm 2024 (so cùng kỳ), nhờ đầu tư nước ngoài vẫn đứng vững và đầu tư công được đẩy mạnh. Tiêu dùng cuối cùng trong nửa đầu năm 2025 tăng 8,0%, so với 5,8% (cùng kỳ năm ngoái), nhờ du lịch khởi sắc. Nhìn trên góc độ cung, các lĩnh vực chế biến, chế tạo vẫn đóng góp lớn nhất cho tăng trưởng kinh tế (ở mức 30,7% cho tăng trưởng GDP trong nửa đầu năm 2025), tiếp theo là các dịch vụ liên quan đến thương mại (8,3%). Khu vực dịch vụ đóng góp gần một nửa tổng tăng trưởng kinh tế trong sáu tháng đầu năm 2025. Kết quả này cũng vượt trội so với thành tích mà Việt Nam đạt được trong 10 năm qua, nếu không tính giai đoạn phục hồi sau COVID-19. Nói cách khác, nền kinh tế đã có một màn thể hiện rất ấn tượng, phần lớn nhờ vào sự gia tăng xuất khẩu. Sự tăng trưởng xuất khẩu này đã thúc đẩy sản xuất hàng công nghiệp, đồng thời kéo theo sự phát triển của các dịch vụ thương mại như vận tải và logistics. Ông đánh giá như thế nào về công tác điều hành chính sách tài khóa và tiền tệ từ đầu năm đến nay? Từ đầu năm 2025 tới nay, chính sách tài khóa được thực hiện theo hướng mở rộng linh hoạt thông qua đầu tư công. Theo đó, đầu tư công mở rộng cả ở cấp trung ương và địa phương cho các dự án hạ tầng lớn về giao thông, năng lượng, đồng thời, tác động lớn với nhu cầu về nguyên vật liệu. Tuy nhiên, cần thêm thời gian để hiện thực hóa tác động này với tăng trưởng kinh tế và sẽ càng thể hiện rõ hơn trong trung hạn. Cùng với chính sách tài khóa mở rộng, chính sách tiền tệ được nới lỏng khi Ngân hàng Nhà nước dùng nhiều biện pháp can thiệp để kiềm chế áp lực tỷ giá và đẩy mạnh tăng trưởng tín dụng. Chính sách tiền tệ nới lỏng trên đã hỗ trợ nền kinh tế phục hồi, với lãi suất chính sách thực về gần bằng không. Đến ngày 31/8/2025, tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đăng ký vào Việt Nam đạt 26,14 tỷ USD, tăng mạnh 27,3% so với cùng kỳ năm 2024. Đây có phải là kết quả khả quan không, thưa ông? Dù bối cảnh toàn cầu bất ổn, FDI vào Việt Nam vẫn bền bỉ, vốn giải ngân từ các doanh nghiệp nước ngoài đã tăng đáng kể. Các cam kết cho tương lai cũng duy trì tích cực. Kết quả này có được một phần nhờ cam kết mạnh mẽ của Chính phủ trong việc cải thiện môi trường kinh doanh. Việc đặt mục tiêu cắt giảm và đơn giản hóa ít nhất 30% điều kiện kinh doanh, thủ tục hành chính và chi phí tuân thủ trong năm 2025 là điều rất đáng hoan nghênh và sẽ góp phần củng cố niềm tin của nhà đầu tư. Một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế là đầu tư công, ông đánh giá như thế nào về tốc độ giải ngân đầu tư công với tăng trưởng kinh tế? Tính đến tháng 8/2025, mức giải ngân đạt khoảng 40% so với kế hoạch đề ra. Tốc độ giải ngân vốn đầu tư công đã cải thiện cả ở cấp trung ương và địa phương. Bên cạnh đó, điểm tích cực khác là cam kết chính trị mạnh mẽ trong việc tiếp tục thúc đẩy đầu tư công, thông qua việc thành lập các cơ quan, ủy ban mới để phối hợp nâng cao hiệu quả giải ngân. Tuy nhiên, nhiều khó khăn trong khâu triển khai đã tồn tại lâu dài và đến nay vẫn chưa được khắc phục triệt để. Một số biện pháp đã được triển khai sẽ cần thời gian để phát huy hiệu quả. Ví dụ, việc sáp nhập các tỉnh, thành hoặc điều chỉnh Luật Đầu tư công chắc chắn sẽ có tác động tích cực, nhưng trong ngắn hạn có thể gây ra gián đoạn, ảnh hưởng đến tiến độ giải ngân. Một số biện pháp có thể hỗ trợ gồm: Trao thêm quyền linh hoạt trong việc điều chỉnh dự án trong suốt vòng đời đầu tư; tiếp tục tinh giản thủ tục, tăng cường giám sát, cũng như nâng cao hiệu quả ứng dụng thông tin trong theo dõi, quản lý dự án. Chính phủ Việt Nam đặt mục tiêu tăng trưởng khá tham vọng trong năm nay, khoảng 8,3% – 8,5%. Vậy ông có khuyến nghị gì để Việt Nam đạt được mục tiêu này? Dù tăng trưởng kinh tế đạt kết quả tích cực trong những tháng vừa qua song trong những tháng còn lại của năm, những bất định từ môi trường toàn cầu, đặc biệt là các biện pháp thuế quan mới và sự thiếu ổn định trong chính sách thương mại sẽ tiếp tục hiện hữu và có thể tác động đến tăng trưởng. Một phần động lực tăng trưởng trong nửa đầu năm đến từ việc xuất khẩu tăng trước thời hạn, nhằm đón đầu các mức thuế cao hơn, nhưng xu hướng này sẽ chấm dứt trong nửa cuối năm. Vì vậy, chúng tôi dự báo tăng trưởng sẽ chậm lại trong nửa cuối năm, với mức tăng trưởng chung đạt 6,6% trong năm 2025 và 6,1% trong năm 2026. Đây vẫn là kết quả rất tích cực, đặc biệt trong bối cảnh môi trường bên ngoài bất lợi. Chính phủ Việt Nam có thể triển khai một số chính sách để duy trì đà tăng trưởng hiện tại và giảm thiểu rủi ro, cả từ bên ngoài lẫn trong nước.  Thứ nhất, trong lĩnh vực thương mại, tiếp tục thúc đẩy các nỗ lực nhằm giảm bớt bất định xoay quanh chính sách thương mại, chẳng hạn như vấn đề trung chuyển hay tận dụng các thị trường khác để đa dạng hóa vị thế của Việt Nam. Thứ hai, tiếp tục cắt giảm các rào cản phi thuế quan, đồng thời đa dạng hóa sản phẩm xuất khẩu, không chỉ tập trung vào hàng hóa công nghiệp mà còn mở rộng sang dịch vụ, dịch vụ số và các sản phẩm công nghệ cao có giá trị gia tăng lớn. Thứ ba, tăng cường vai trò của doanh nghiệp trong nước để kích thích tiêu dùng tư nhân, qua đó duy trì đà tăng trưởng trong ngắn hạn. Ngoài ra, Chính phủ Việt Nam đang triển khai các kế hoạch đẩy mạnh đầu tư công. Đây là hướng đi rất tích cực để hỗ trợ tăng trưởng, nhằm hiện thực hóa mục tiêu tăng trưởng cao của Chính phủ và tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế trung hạn. Trân trọng cảm ơn ông!  Xuân Anh (thực hiện)  (Theo Tạp chí Nghiên cứu Khoa học kiểm toán, tháng 9/2025)