Thứ bảy, 20/9/2025

Điện thoại (024) 6287 3463

Đường dây nóng (024) 6287 3463

Liên hệ quảng cáo (+84)915.632.345

Thứ bảy, 20/9/2025
Share on Facebook
Copy to Clipboard

GIÁ VÀNG - NHỮNG KỶ LỤC MỚI

Giá vàng thế giới năm 2011 tăng khá mạnh và ảnh hưởng trực tiếp vào sự tăng trưởng kinh tế thế giới trong thời gian vừa qua. Ðối với thị trường vàng trong nước, giá vàng lên xuống cùng chiều với động thái thế giới là tín hiệu tốt, cho thấy sự lành mạnh và hội nhập của thị trường vàng trong nước. Tuy nhiên, các chuyên gia cũng lo ngại đến yếu tố tâm lý của người dân và sự thao túng của các nhóm đầu cơ lớn...

 

Giá vàng đạt đỉnh cao mọi thời đại

Giá vàng thế giới trong quý I/2011 tiếp tục tăng 25%, và trong hai quý đầu năm 2011 tăng 32% so cùng kỳ năm trước; riêng tháng 4-2011, giá vàng lập kỷ lục không dưới 10 lần. Cơn sốt của giá vàng thế giới đã lên đến đỉnh cao trong quý 3/2011 khi những căng thẳng về mức trần nợ công của Mỹ ngày càng gia tăng và lo ngại về thâm hụt ngân sách ở các nước thành viên Khu vực đồng tiền chung châu Âu (Eurozone) vẫn diễn biến phức tạp khiến các nhà đầu tư tiếp tục coi vàng là công cụ tài chính an toàn, đã đẩy giá mặt hàng kim loại quí này kết thúc phiên giao dịch ngày 29/7/2011 lên đỉnh cao mọi thời đại. Tại sàn giao dịch New York, giá vàng giao tháng 8/2011 đã tăng 15 USD lên 1.631,20 USD/ounce. Đây là mức giá cao kỷ lục đối với mặt hàng kim loại quí này. Đây cũng là đợt tăng giá vàng kéo dài nhất kể từ giữa tháng 10-2006 tới nay. Lịch sử thị trường vàng thế giới chưa khi nào chứng kiến một đợt tăng giá bền bỉ đến như vậy của kim loại quý này.

Theo Reuters, đợt tăng giá này của vàng là “vô tiền khoáng hậu”. Những nguyên nhân xuất phát từ lo ngại liên quan tới nợ công của Mỹ và cuộc khủng hoảng nợ công châu Â, cũng như độ rủi ro đang tăng cao của các đồng tiền, nhất là USD và Euro đã khiến cho giới đầu tư quốc tế  rót mạnh vốn vào vàng. Tăng trưởng kinh tế của Mỹ trong quí 2 năm nay chỉ đạt mức 1,3%, thấp hơn dự báo trước đó là 1,6%, cùng với việc các hãng xếp hạng tín dụng liên tục hạ mức tín nhiệm đối với một số nước thành viên Eurozone, là những tín hiệu cho thấy sự phục hồi kinh tế toàn cầu mong manh, khiến nhu cầu về vàng tiếp tục tăng mạnh.

Theo Hãng tin Reuters, phân tích kỹ thuật cho thấy, giá vàng sẽ đạt mức 1.700 USD/oz trong vài tháng tới. Thậm chí, có chuyên gia cho rằng, khả năng đạt mốc giá 2.000 USD/oz đối với vàng trong 6-9 tháng tới không phải là chuyện “điên rồ”. Từ năm 2001 tới nay, giá vàng đã tăng gấp hơn 6 lần. Tuy nhiên, giá vàng hiện nay vẫn chưa thể vượt được mức giá quy đổi theo lạm phát 2.300 USD/oz đạt được vào năm 1980.

Giá vàng quốc tế lên cao dẫn đến giá vàng trong nước từ tháng 1-2011 đến nay liên tục "phập phồng" ở mốc 35 đến 36 triệu đồng/lượng. Trong 6 tháng đầu năm 2011, giá vàng trong nước chỉ dao động trong khoảng 36 đến 38 triệu đồng/lượng. Tuy nhiên, đà tăng vượt mức đỉnh cũ của giá vàng thế giới vào ngày 11/7/2011 lên mức 1.550 USD/ounce, đã khiến giá vàng trong nước tăng mạnh và vượt qua mức đỉnh cũ 38,55 triệu đồng/lượng và thiết lập mức đỉnh mới lên tới 41,5 triệu đồng/lượng vào những ngày đầu cuối tháng 7 và đầu tháng 8/ 2011.  Đây là mức kỷ lục mới của giá vàng trong nước, cao hơn mức giá mở cửa đầu ngày khoảng 350.000 đồng/lượng.

Có thể thấy, giá vàng trong nước trong nửa đầu năm 2011 hầu như phụ thuộc cùng chiều vào động thái giá vàng thế giới, khác hẳn với những cơn sốt lội ngược dòng so với giá thế giới như năm 2010. Ðây là tín hiệu tốt cho thấy sự lành mạnh và hội nhập của thị trường vàng trong nước với thế giới, minh chứng tiêu biểu cho hiệu quả của chính sách quản lý vàng gần đây của NHNN.

Tuy nhiên, đáng chú ý là có những thời điểm giá vàng trong nước đã bất ngờ cao hơn giá vàng “ngoại”. Khoảng cách chênh giá giữa hai thị trường vàng trong nước và quốc tế có thời điểm vào khoảng 150.000-200.000 đồng/lượng, trong đó vàng trong nước đắt hơn. Trong vòng khoảng hơn hai tháng qua, giá vàng trong nước luôn thấp hơn thế giới và tạo điều kiện cho xuất khẩu vàng. Lý giải về diễn biến này, một số chuyên gia cho biết, sự đảo chiều tương quan này bắt nguồn một phần từ lực mua vàng trong nước tăng, mặt khác do ảnh hưởng của quy định mới về thuế xuất khẩu vàng.

Theo quy định mà Bộ Tài chính vừa ban hành, kể từ ngày 6/8/2011, sản phẩm có hàm lượng vàng từ 80%, thay vì 99% như trước đây, đã phải chịu mức thuế xuất khẩu là 10%. Từ lâu, hoạt động xuất khẩu nữ trang dạng thô của các doanh nghiệp và ngân hàng vẫn bị xem là một dạng “trá hình” của xuất khẩu vàng nguyên liệu. Quy định mới được ban hành nhằm ngăn chặn tình trạng này. Một số ý kiến cho rằng quy định mới này được dự báo sẽ tạo một rào cản lớn cho hoạt động xuất khẩu vàng sắp tới; trong khi đó, gần đây, nhiều tổ chức kinh doanh vàng lớn đã tranh thủ gom một khối lượng vàng lớn để xuất khẩu mà đến giờ vẫn chưa kịp xuất đi. Vì thế giá được đẩy lên để các tổ chức này xả số hàng đã gom nhân lúc thị trường đang mua mạnh...

Giá vàng lên cao dẫn đến thị trường vàng giao dịch rất nhộn nhịp. Tại các cửa hàng kim hoàn lớn như Bảo Tín Minh Châu hay Phú Quý tại Hà Nội, khách mua chiếm đến hơn 70% lượng khách giao dịch. Giá vàng tăng mạnh cũng tạo xu thế phản ứng thị trường không đồng nhất, trong khi nhiều nhà đầu tư ở TP Hồ Chí Minh ráo riết mua vào, thì một bộ phận nhà đầu tư Hà Nội lại "ồ ạt" bán ra để chốt lời, dùng một phần tiền mặt để gửi tiết kiệm làm cho các ngân hàng cải thiện đáng kể lượng tiền huy động trên thị trường... Các chuyên gia bày tỏ lo ngại một kịch bản xấu khi tâm lý người dân không vững vàng, nhất là sau khi người dân và doanh nghiệp trong nước hiện thực hóa lợi nhuận thông qua hình thức bán vàng mà giá vàng vẫn tiếp tục tăng cao, người dân sẽ quay lại mua vàng. Tiền tiết kiệm từ ngân hàng sẽ được hút ra phục vụ cho hoạt động đầu cơ. Khi nhu cầu vàng trong nước tăng đột biến, các doanh nghiệp sẽ nhập khẩu vàng và cần lượng ngoại tệ lớn để thanh toán, tạo áp lực lớn lên tỷ giá hối đoái và đẩy nhập siêu, lạm phát gia tăng...

 

Dự báo giá vàng?

Theo nhận định của một số chuyên gia phân tích, mức tăng giá vàng cả năm 2011 có thể trên dưới 10-15% so với mức đỉnh cao nhất của giá vàng năm 2010, thay vì tăng tới 30% so với năm trước, như trong 2 năm liên tiếp 2009 và 2010. Hiện, giá vàng thế giới trong năm 2011 tiếp tục tùy thuộc mạnh và trực tiếp vào việc cải thiện tăng trưởng kinh tế thế giới nói chung. Ngoài ra, thị trường vàng còn bị tác động bởi việc mua vào của các ngân hàng TW, các quỹ đầu tư vàng; chính sách tài chính-tiền tệ, tình hình nợ công. Các nhân tố Trung Quốc; tình hình cung-cầu về lương thực trên thế giới hay những động thái chính sách mới liên quan tới xu hướng thắt chặt tài chính-tín dụng và tăng cường kiểm soát vàng, ngoại tệ, nhất là các hoạt động đầu cơ ngầm trên thị trường đều ảnh hưởng đến giá vàng.

Thực tế cho thấy, những năm gần đây, giá vàng trong nước diễn biến theo giá vàng quốc tế cũng như tùy thuộc vào tương quan cung-cầu, tỷ giá USD/VND và tâm lý của nhà đầu tư… Đặc biệt, do phụ thuộc nguồn cung nhập khẩu chưa được tự do hóa hoàn toàn, nên thông thường giá vàng trong nước có mức cao hơn, cũng như lên nhanh hơn, nhưng  xuống chậm hơn so với tốc độ giá vàng thế giới (năm 2010 có lúc giá vàng trong nước cao hơn giá thế giới tới 200.000 đồng/chỉ). Hơn nữa, giá cả và quy mô thị trường vàng trong nước năm 2011, ngoài những nhân tố trên, còn chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của các áp lực điều chỉnh tỷ giá và tăng khá mạnh giá một số mặt hàng trong diện nhà nước quản lý, như giá điện và than.

Về tổng thể, trong thời gian tới, do chịu nhiều áp lực cũ, đa dạng, nhưng có điều chỉnh về liều lượng và cơ cấu nhân tố cụ thể, giá vàng trong nước, ngoài những nhân tố trên còn chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của các áp lực điều chỉnh tỷ giá và tăng khá mạnh giá một số mặt hàng trong diện nhà nước quản lý, như giá điện và than; cũng như tùy thuộc vào lượng nhập khẩu các hàng hóa và nguyên liệu... Ðộng thái giá vàng nói riêng và sự ổn định giá cả trong nước nói chung tùy thuộc rất lớn vào sự bảo đảm đồng bộ và phối hợp tốt các chính sách và năng lực quản lý nhà nước về các vấn đề có liên quan, bảo đảm sự liên thông trực tiếp giữa các loại thị trường (nhất là thị trường vàng) trong nước và nước ngoài, phù hợp nguyên tắc cạnh tranh thị trường lành mạnh, đầy đủ và minh bạch, dựa trên hệ thống thông tin tốt, phản biện khoa học và bộ máy tham mưu có đủ năng lực và trách nhiệm cao...

Trong bối cảnh giá vàng liên tục có những diễn biến bất thường, câu hỏi là nên đầu tư vào đâu cũng đang được nhiều người quan tâm. Những tháng cuối năm 2011, thị trường chứng khoán vẫn được dự báo khó trông mong có được dòng vốn trong nước lẫn quốc tế đổ vào. Trong khi đó, chính sách tiền tệ thắt chặt cũng gây ra một số những tiềm ẩn, bất ổn của kinh tế Việt Nam, trong đó có thể khiến vấn đề ổn định hệ thống ngân hàng và khống chế nợ xấu khó thực hiện tốt. Không những vậy, rủi ro tỷ giá sẽ vẫn là một mối lo trong các quý còn lại của năm 2011. Một số chuyên gia phân tích cho rằng, vàng vẫn có thể trở thành kênh cạnh tranh đối với dòng vốn vào thị trường chứng khoán nếu giá vàng quốc tế tiếp tục được tác động bởi những tin tức về bất ổn nợ quốc gia trên thế giới và xu thế tiếp tục duy trì chính sách tiền tệ nới lỏng của Mỹ. Biến động thị trường vàng trong thời gian vừa qua cho thấy, đã có sự tham gia của giới đầu tư vào thị trường này sau một thời gian dài im ắng, trong khi kênh chứng khoán, bất động sản đang khó khăn và đầy rủi ro thì sức tăng mạnh mẽ của vàng có thể sẽ là kênh đầu tư an toàn./.

 

 

ThS. Vũ Mai Hương

Học viện Tài chính

Lượt xem: 1

Tạo nền tảng cho kinh tế tăng tốc những tháng cuối năm

(khoahockiemtoan.vn) - Trong những tháng còn lại của năm 2024, kinh tế Việt Nam còn phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức từ biến động địa chính trị trên thị trường thế giới. Vì thế, TS. Trần Thị Hồng Minh, Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM), cho rằng trên những nền tảng đã có, nếu tận dụng tốt cơ hội và duy trì đà tăng trưởng thì Việt Nam có thể hoàn thành mục tiêu tăng trưởng kinh tế.   Những tháng đầu năm đã qua, bà đánh giá như thế nào về thực trạng kinh tế Việt Nam? Kinh tế Việt Nam đã và đang phải đối mặt với những thuận lợi đan xen với khó khăn, thách thức từ bối cảnh quốc tế với những biến động khó lường, phức tạp từ xung đột quân sự, biến động chính trị, bất ổn kéo dài tại một số quốc gia, khu vực. Trong bối cảnh ấy, Việt Nam vẫn đạt những kết quả quan trọng về phát triển kinh tế - xã hội, tháng sau tích cực hơn tháng trước, quý sau tốt hơn quý trước. Theo đó, tổng sản phẩm trong nước (GDP) quý II/2024 tăng trưởng tích cực, với tốc độ tăng ước đạt 6,93% so với cùng kỳ năm trước, chỉ thấp hơn tốc độ tăng 7,99% của quý II/2022 trong các quý II của giai đoạn 2020-2023. GDP 6 tháng đầu năm 2024 tăng 6,42%, chỉ thấp hơn tốc độ tăng 6,58% của sáu tháng đầu năm 2022 trong giai đoạn 2020-2024. Qua 7 tháng đầu năm 2024, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiểm soát khi bình quân 7 tháng năm 2024, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng 4,12% so với cùng kỳ năm trước và lạm phát cơ bản tăng 2,73%. Đáng lưu ý, việc điều chỉnh lương cơ sở đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang từ 01/7/2024 chưa gây áp lực đáng kể đối với diễn biến giá cả trong tháng 7. Việt Nam tiếp tục là điểm sáng của cải cách và hội nhập kinh tế. Các giải pháp cơ cấu lại nền kinh tế, phát triển vùng, cải thiện môi trường kinh doanh, tăng năng suất lao động, phát triển các mô hình kinh tế mới (kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn) đã giúp thúc đẩy các ngành kinh tế tăng trưởng. Chẳng hạn, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp 7 tháng năm 2024 ước tính tăng 8,5% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số Nhà quản trị mua hàng (PMI) tháng 7 tiếp tục duy trì ở mức 54,7, bằng với tháng trước đó. Du lịch cũng có sự phục hồi tích cực khi khách quốc tế đến nước ta đạt gần 10 triệu lượt người, còn số khách du lịch trong nước cũng đạt 79,5 triệu lượt. Hoạt động kinh tế đối ngoại diễn ra sôi động. Tổng vốn đăng ký cấp mới, điều chỉnh và góp vốn mua cổ phần, mua phần vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài đạt hơn 18 tỷ USD trong 7 tháng đầu năm, tăng 10,9% so với cùng kỳ năm 2023. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện trong 7 tháng đầu năm đạt 12,55 tỷ USD, tăng 8,4%. Điều này cho thấy các nhà đầu tư nước ngoài duy trì niềm tin và sự lạc quan với thị trường Việt Nam. Bên cạnh đó, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa đạt 440,45 tỷ USD, tăng 17,2% trong 7 tháng năm 2024, cán cân thương mại hàng hóa xuất siêu 14,53 tỷ USD. Hơn nữa, khu vực kinh tế trong nước đã đạt tăng trưởng xuất khẩu cao hơn so với khu vực đầu tư nước ngoài, cho thấy năng lực thích ứng và tận dụng cơ hội của cộng đồng doanh nghiệp trong nước. Cùng những kết quả đạt được, xin bà cho biết cụ thể hơn về những khó khăn và thách thức từ bên ngoài và nội tại nền kinh tế? Triển vọng kinh tế thế giới còn nhiều khó khăn, bất định. Một số nền kinh tế chủ chốt giữ lãi suất điều hành ở mức cao nhằm kiềm chế lạm phát. Cạnh tranh chiến lược về khoa học, công nghệ, thương mại giữa các nền kinh tế lớn, đặc biệt là giữa Mỹ và Trung Quốc, vẫn diễn ra gay gắt, phức tạp. Thiên tai, bão lũ, biến đổi khí hậu tiềm ẩn rủi ro tác động đến nguồn cung và giá cả lương thực, hàng hóa thế giới… Nhiều thị trường quốc tế đã gia tăng quy định nhằm thúc đẩy phát triển bền vững, phát triển các chuỗi giá trị giảm phát thải các-bon. Không ít thị trường gia tăng các biện pháp phòng vệ đối với hàng hóa nhập khẩu. Theo đó, khả năng thâm nhập của hàng Việt Nam xuất khẩu cũng bị ảnh hưởng. Việt Nam cũng cần lưu tâm hơn ở một số lĩnh vực, quy định trong nước. Chẳng hạn, cải cách môi trường kinh doanh chưa tương xứng với những kỳ vọng đặt ra, giải ngân tín dụng tương đối chậm; chi phí của một số hàng hóa, dịch vụ đầu vào chịu áp lực tăng tạo áp lực lên lạm phát. Đáng lưu ý, tác động từ tăng lương cơ sở và tăng lương tối thiểu vùng có thể gây ra lạm phát “chi phí đẩy” nếu không theo dõi, đánh giá sát và có giải pháp kịp thời, đồng bộ. Bên cạnh đó, số lượng doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường tăng nhanh hơn số doanh nghiệp thành lập mới trong 7 tháng đầu năm. Trong khi đó, dù đã có nhiều giải pháp chính sách, năng suất lao động chưa được cải thiện ở mức tương xứng. Khả năng kết nối giữa khối doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) còn chậm được cải thiện, qua đó ảnh hưởng đến khả năng đóng góp và hưởng lợi từ xuất khẩu của các doanh nghiệp trong nước. Nhận thức và năng lực chuyển đổi của doanh nghiệp để thích ứng với các xu hướng mới như chuyển đổi số, chuyển đổi xanh còn tương đối hạn chế. Đâu sẽ là nền tảng để nền kinh tế Việt Nam chống chịu với những khó khăn nêu trên, thưa bà? Những kết quả khả quan về kinh tế - xã hội những tháng đầu năm là cơ sở để Chính phủ và cộng đồng doanh nghiệp gia tăng nỗ lực hơn trong các tháng cuối năm. Cần tiếp tục duy trì khung chính sách bài bản về nền tảng ổn định kinh tế vĩ mô, nỗ lực cải cách thể chế kinh tế để mở rộng không gian phát triển cho cộng đồng doanh nghiệp, cải thiện năng suất lao động, bảo đảm các cân đối lớn và bảo đảm an sinh xã hội. Cần lưu ý, Việt Nam cũng đã có những nền tảng quan trọng từ “đổi mới tư duy”. Chính phủ đã quyết liệt chỉ đạo tháo gỡ không ít rào cản về mặt thể chế, chính sách nhằm mở rộng không gian kinh tế, giảm chi phí không cần thiết cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Các quy hoạch được phê duyệt đã lồng ghép những tư duy mới, gắn với phát triển các mô hình kinh tế mới như kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn... Chuyển đổi số, chuyển đổi xanh có sự gắn kết tương hỗ với nhau và đều ưu tiên thực hiện khẩn trương. Nhờ đó, Việt Nam đang được cộng đồng quốc tế đánh giá cao về tư duy cải cách. Xin thông tin thêm, với vai trò đại diện của Việt Nam (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) tại Ủy ban Kinh tế APEC, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương đang chủ trì, phối hợp với các đối tác xây dựng chương trình cải cách cơ cấu mới cho APEC giai đoạn 2026-2030. Trên nền tảng ấy, nếu tận dụng tốt cơ hội từ đà phục hồi của kinh tế thế giới và theo dõi, xử lý hiệu quả các khó khăn, bất định từ bên ngoài, Việt Nam có thể hoàn thành vượt mức mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2024. Bà khuyến nghị như thế nào để nền kinh tế nước ta tiếp tục có những bước phát triển hiệu quả trong thời gian tới? Việt Nam cần quyết liệt hơn trong cải cách thể chế kinh tế, qua đó giúp phát huy hiệu quả tối đa nội lực của nền kinh tế, để nền kinh tế vươn mình tận dụng những thời cơ phát triển mới. Cần nhấn mạnh, thể chế chính là một nguồn lực, thậm chí là “chìa khóa” quan trọng. Việt Nam cần cân nhắc một số định hướng chính sách nhằm “làm mới” động lực cải cách thể chế, tạo thuận lợi và tăng giá trị cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Chẳng hạn như đẩy nhanh cải cách môi trường kinh doanh, đơn giản hóa các điều kiện kinh doanh và thủ tục hành chính; hoàn thiện thể chế liên kết vùng, nhằm tạo động lực cho liên kết giữa các địa phương và doanh nghiệp ở các địa phương theo tư duy chuỗi giá trị để “cùng đổi mới, cùng liên kết, cùng hợp tác, cùng thắng, cùng phát triển”. Song song với đó là rà soát, hoàn thiện khung chính sách để mở rộng không gian phát triển cho các mô hình kinh tế mới như kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế ban đêm, kinh tế sáng tạo… Cùng với đó cần tập trung tháo gỡ các khó khăn về tiếp cận các thị trường xuất khẩu, đẩy nhanh tạo thuận lợi thương mại, khuyến khích đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, tận dụng tối đa hiệu quả các hiệp định thương mại tự do (FTA), tìm kiếm và khai thác hiệu quả các thị trường ngách, kể cả thông qua nền tảng số hóa và thử nghiệm phát triển khu thương mại tự do. Các cơ quan quản lý cần nhanh chóng hoàn thiện và triển khai hiệu quả khung chính sách cải thiện năng suất lao động, gắn với tăng kỹ năng và chuyển đổi kỹ năng cho người lao động để thích ứng với các mô hình kinh tế mới; đồng thời thúc đẩy chuyển giao công nghệ từ doanh nghiệp FDI sang khu vực doanh nghiệp trong nước. Bên cạnh đó, cần tiếp tục theo dõi, đánh giá, dự báo sát tình hình kinh tế thế giới và trong nước với các kịch bản đủ chi tiết, tính đến những rủi ro chiến tranh thương mại, gia tăng phòng vệ ở các thị trường xuất khẩu, xu hướng dịch chuyển đầu tư nước ngoài... để kiến nghị phương án, giải pháp phù hợp, qua đó củng cố ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn và tạo nền tảng quan trọng cho cải cách, hội nhập và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Xin trân trọng cảm ơn bà! Hương Dịu (thực hiện)

Thị trường tài chính có thể dễ thở hơn trong năm 2024

TS. Nguyễn Minh Cường, Chuyên gia kinh tế, nguyên Chuyên gia kinh tế trưởng quốc gia ở Việt Nam của Ngân hàng phát triển châu Á (ADB) cho rằng, thị trường tài chính toàn cầu nói chung và thị trường tài chính Việt Nam có thể “dễ thở” hơn trong năm 2024, trong đó, thị trường trái phiếu doanh nghiệp có thể sẽ ghi nhận một số kết quả tích cực từ việc thực hiện cải cách trong thời gian qua. TS. Nguyễn Minh Cường, Chuyên gia kinh tế Sau năm 2022 với nhiều chấn động trong lĩnh vực ngân hàng và thị trường trái phiếu doanh nghiệp, thị trường tài chính Việt Nam năm 2023 có những điểm nào đáng chú ý, thưa ông? Thị trường tài chính là một phần quan trọng của nền kinh tế, chịu ảnh hưởng bởi biến động của nền kinh tế và tác động trở lại nền kinh tế. Thị trường tài chính năm 2023 phản ánh đúng diễn biến của nền kinh tế. Có thể thấy rõ, từ cuối năm 2022 và cả năm 2023 đã xuất hiện sự khác biệt về cách thức điều hành chính sách tài chính của các nước. Cụ thể, về chính sách tiền tệ, Việt Nam và một số nước châu Á có xu hướng đi ngược với các nước phát triển. Sự khác biệt về định hướng điều hành chính sách tiền tệ đã tạo ra khoảng cách lớn về lãi suất/ tỷ giá giữa các đồng tiền, từ đó tác động ngược lại với toàn bộ thị trường tài chính. Đặc biệt, đồng VND và nhiều đồng tiền khác giảm giá so với USD.  Riêng với Việt Nam, thị trường trái phiếu doanh nghiệp có diễn biến bất ổn trong năm qua khiến kênh huy động vốn quan trọng này của thị trường tài chính bị gián đoạn. Đặc biệt, trái phiếu doanh nghiệp bất động sản phát hành riêng lẻ gần như đóng băng sau sự sôi động của năm 2022. Sự gián đoạn của thị trường trái phiếu doanh nghiệp gây áp lực gia tăng cho thị trường ngân hàng trong việc cung cấp vốn cho doanh nghiệp. Đáng chú ý, tỷ lệ tín dụng/GDP của Việt Nam đã ở mức gần 130% - con số quá lớn theo cảnh báo của WB và ADB - có thể gây rủi ro về kỳ hạn do nguồn vốn huy động ngắn hạn từ kênh tín dụng lại phải cung cấp vốn trung và dài hạn. Trong khi đó, nợ xấu của hệ thống ngân hàng đang tăng, đã có lúc tác động bất lợi đến thanh khoản khiến dư địa giảm lãi suất không còn. Sau giai đoạn thiếu hụt thanh khoản cuối năm 2022, hệ thống ngân hàng lại ở tình trạng thừa thanh khoản do nền kinh tế không hấp thụ được vốn, Ngân hàng Nhà nước phải dùng một số biện pháp nghiệp vụ để hút tiền về trong hệ thống, giảm sức ép chênh lệch lãi suất giữa VND và USD. Nhìn chung, hệ thống ngân hàng và chính sách tiền tệ nói chung đã hầu như hết dư địa, nhưng lại được trao cho quá nhiều nhiệm vụ và đang rơi vào tình trạng quá tải. Thị trường trái phiếu doanh nghiệp vẫn chưa thật sự phục hồi sau các vụ việc trong năm 2022 không hỗ trợ được nhiều cho nền kinh tế dẫn đến sức ép lại càng dồn lên hệ thống ngân hàng. Bên cạnh đó, chính sách tài khóa vẫn còn dư địa thì lại quá rụt rè. Việc cắt giảm thuế VAT từ 10% xuống 8% thực hiện nhỏ giọt 6 tháng một lần, và không phải với tất cả các mặt hàng, tạo ra sức ép cho bộ máy thực hiện, làm chậm tính hiệu quả của việc cắt giảm VAT. Nguồn vốn đầu tư công giải ngân - được coi là kênh hỗ trợ nguồn lực tốt khi thị trường tín dụng gặp khó - lại giải ngân chậm, không hiệu quả. Có thể khái quát bức tranh tổng thể thị trường tài chính năm 2023 là sự tắc nghẽn về vốn rất lớn trong hệ thống ngân hàng, cho dù lãi suất đã giảm vì sức hấp thụ vốn của nền kinh tế yếu. Trong khi đó, yếu tố kích thích để khai thông vốn là chính sách tài khóa, và đầu tư công lại vận hành quá rụt rè và không hiệu quả. Nhiều giải pháp đã được thực thi để giải quyết các ách tắc về vốn cho nền kinh tế trong năm qua. Theo ông, các giải pháp đó có hiệu quả như thế nào? Với thực tế như vậy, một giải pháp được thực thi là tiếp tục cải cách để tăng hiệu quả hoạt động của thị trường. Trong đó, giải pháp nổi bật đã thực hiện là cải cách quy định với thị trường trái phiếu doanh nghiệp, bằng việc ban hành nghị định 65/2022/NĐ-CP về trái phiếu doanh nghiệp phát hành riêng lẻ. Các nội dung định hướng sửa đổi trong văn bản đó là rất tốt/phù hợp/hỗ trợ cho sự phát triển bền vững của thị trường, nổi bật là quy định về đánh giá xếp hạng tín nhiệm với doanh nghiệp phát hành và tăng điều kiện với nhà đầu tư cá nhân. Với hệ thống ngân hàng, quy định về tăng cường chất lượng quản trị hệ thống như giảm tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn đã được thực thi cùng với nợ xấu ở mức cao khiến dòng vốn tín dụng vào nền kinh tế bị siết hơn. Do đó, đẩy mạnh cấp vốn cho nền kinh tế đồng thời phải đối phó với các rủi ro hiện hữu về chất lượng tài sản trong hệ thống và rủi ro vĩ mô như lạm phát, tỷ giá là một nhiệm vụ “gần như bất khả thi” với hệ thống ngân hàng. Đến nay, điều may mắn là thị trường tài chính toàn cầu đã “dễ thở” hơn với việc nhiều ngân hàng trung ương thể hiện quan điểm không tiếp tục tăng lãi suất. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là đã hết rủi ro. Do đó, việc tiếp tục đẩy mạnh vốn tín dụng ra thị trường cũng cần cân nhắc và đảm bảo thực hiện các giải pháp kiểm soát rủi ro, tránh gây sức ép lên hệ thống ngân hàng vì sẽ tạo ra các rủi ro hệ thống trong tương lai. Sau những biến động của năm 2022 và năm 2023, theo ông, thị trường tài chính Việt Nam năm 2024 sẽ có những điểm nào đáng chú ý? Thị trường tài chính toàn cầu nói chung và thị trường tài chính Việt Nam có thể “dễ thở” hơn trong năm 2024 bởi gần như các ngân hàng trung ương sẽ không tăng lãi suất. Có thể nói, câu chuyện tăng lãi suất đã qua. Với thị trường ngân hàng Việt Nam, với nền kinh tế phụ thuộc lớn vào tín dụng ngân hàng thì triển vọng tăng trưởng năm 2024 sẽ là yếu tố quan trọng cho tăng trưởng tín dụng ngân hàng. Triển vọng kinh tế thế giới năm 2024 sẽ là phục hồi chậm, thương mại toàn cầu tiếp tục giảm, sẽ tác động đến hoạt động xuất nhập khẩu củaViêt Nam khiến triển vọng kinh doanh của doanh nghiệp sẽ tiếp tục khó khăn, ảnh hưởng đến tăng tín dụng ngân hàng. Ngoài ra, chất lượng tài sản của ngân hàng cũng đang suy giảm với nợ xấu gia tăng, kể cả nợ xấu từ trái phiếu doanh nghiệp, sẽ làm tăng chi phí dự phòng của ngân hàng, và từ đó giảm lợi nhuận ngân hàng. Năm 2024, thị trường trái phiếu doanh nghiệp có thể sẽ ghi nhận một số kết quả tích cực từ việc thực hiện cải cách trong thời gian qua, theo đó, thông tin về doanh nghiệp phát hành được minh bạch hơn, giới đầu tư sẽ “trưởng thành” và có sự chọn lọc hàng hóa tốt hơn. Tuy nhiên, những món nợ trái phiếu được gia hạn trong năm 2023 sẽ là mối lo và sẽ tác động bất lợi cho hoạt động của ngành ngân hàng trong năm 2024. Trân trọng cảm ơn ông! Thúy Hường (thực hiện) (Theo Tạp chí Nghiên cứu Khoa học kiểm toán, tháng 12/2023)

QUYẾT LIỆT THỰC THI CÁC GIẢI PHÁP ĐỂ GIỮ VỮNG ĐÀ TĂNG TRƯỞNG

TS. Cấn Văn Lực, thành viên Hội đồng tư vấn chính sách tài chính – tiền tệ quốc gia, cho rằng kinh tế Việt Nam 6 tháng đầu năm có nhiều điểm sáng bất chấp kinh tế thế giới còn phục hồi chậm và không đồng đều. Dù vậy, nền kinh tế vẫn còn nhiều thách thức, cần các giải pháp điều hành quyết liệt và hiệu quả để giữ đà tăng trưởng trong thời gian tới. Dự báo, tăng trưởng kinh tế Việt Nam 6 tháng cuối năm có khả năng đạt 6,3% đến 6,8% và cả năm có thể đạt 6,3% đến 6,5%.           Ông đánh giá như thế nào về bức tranh kinh tế và hoạt động của các động lực tăng trưởng chủ đạo trong nửa đầu năm nay? Kinh tế Việt Nam trong quý 2 và 6 tháng đầu năm 2024 đạt nhiều kết quả tích cực. Một số động lực tăng trưởng truyền thống cho thấy đà phục hồi khá đồng đều. Tổng kim ngạch xuất - nhập khẩu 6 tháng đầu năm 2024 ước đạt 368,53 tỷ USD, tăng 15,7% so với cùng kỳ năm trước. Thu hút và giải ngân FDI tiếp tục khởi sắc. Trong 6 tháng đầu năm, tổng vốn FDI đăng ký vào Việt Nam ước đạt 15,2 tỷ USD, tăng 13,1% so với cùng kỳ, giải ngân vốn FDI đạt 10,84 tỷ USD, tăng 8,2% so với cùng kỳ năm trước, là mức tăng cao nhất so với cùng kỳ trong vòng 6 năm. Kết quả khả quan này khẳng định niềm tin của nhà đầu tư vào triển vọng tăng trưởng và cơ hội đến từ dịch chuyển chuỗi cung ứng toàn cầu đối với Việt Nam. Tiêu dùng tiếp tục đà phục hồi với tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ trong 6 tháng đầu năm 2024 tăng 8,6% so với cùng kỳ năm trước nhờ lượng khách du lịch tăng mạnh (8,8 triệu lượt khách quốc tế, tăng 58,4% so với cùng kỳ năm 2023 và tăng 4,1% so với cùng kỳ năm 2019). Đà phục hồi tích cực của bán lẻ cùng với tiêu dùng của khu vực nhà nước góp phần đưa tiêu dùng cuối cùng đóng góp cao nhất (64,26%) vào tăng trưởng GDP trong 6 tháng đầu năm. Giải ngân đầu tư công đạt kết quả khả quan dù không đồng đều và còn chậm, đầu tư tư nhân phục hồi. Tổng số vốn giải ngân trong 6 tháng đầu năm ước đạt 244,41 nghìn tỷ đồng, bằng 33,8% kế hoạch năm và tăng 3,5% so với cùng kỳ năm trước. Dù đã đạt kết quả như vậy song diễn biến kinh tế thế giới vẫn chưa thuận lợi, theo ông, kinh tế Việt Nam trong thời gian tới có phải đối mặt với những rủi ro, thách thức nào, thưa ông? Trong thời gian tới, kinh tế Việt Nam vẫn phải đối mặt với một số rủi ro, thách thức chính. Các rủi ro thách thức từ bên ngoài vẫn hiện hữu như: khủng hoảng địa chính trị dai dẳng, khó đoán định đặc biệt xung đột tại Ukraina, Biển Đỏ, Trung Đông...; cạnh tranh chiến lược về thương mại và công nghệ giữa các nước lớn còn phức tạp, làm tăng phân mảnh và bảo hộ thương mại; lạm phát và lãi suất dù giảm song còn cao; rủi ro tài khóa và nợ ở mức cao, khiến kinh tế thế giới phục hồi còn chậm và thiếu bền vững; rủi ro an ninh năng lượng, lương thực và thiên tai, khí hậu cực đoan vẫn thường trực... Bên cạnh đó, một số động lực tăng trưởng truyền thống phục hồi nhưng chưa đồng đều, còn ở mức thấp so với trước dịch và chưa bền vững. Tốc độ tăng tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ (loại trừ yếu tố giá tăng 5,7% chỉ bằng khoảng 66% mức tăng trung bình của cùng kỳ giai đoạn trước dịch 2018-2019 (8,6%); lượng khách du lịch quốc tế tăng mạnh (58,4%) nhưng doanh thu lưu trú - ăn uống và du lịch lữ hành trong 6 tháng đầu năm 2024 chỉ tăng 14,8%, thấp hơn mức trước dịch, cho thấy xu hướng tiêu dùng tiết kiệm của du khách. Tiêu dùng cuối cùng tăng 5,78%, cao hơn cùng kỳ các năm 2020-2023 song vẫn thấp hơn mức trước dịch (6 tháng đầu năm 2019 tăng 7,05%). Đầu tư tư nhân tăng 6,7%, cao hơn mức 2,1% cùng kỳ năm trước, nhưng thấp hơn nhiều mức tăng 17% cùng kỳ giai đoạn trước dịch 2018-2019 và thấp hơn khu vực FDI (10,3%). Mặt khác, hoạt động doanh nghiệp còn nhiều khó khăn dù đã có dấu hiệu khởi sắc: trong 6 tháng đầu năm 2024, số doanh nghiệp gia nhập thị trường đạt gần 120 nghìn doanh nghiệp, cao hơn số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường (110 nghìn doanh nghiệp) là tín hiệu tích cực, tuy nhiên số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn vẫn tăng 18,6% so với cùng kỳ do các vướng mắc về pháp lý chưa được giải quyết kịp thời (đặc biệt là thị trường đất đai, bất động sản); áp lực tài chính (áp lực đáo hạn nợ vay và nợ trái phiếu doanh nghiệp) và chi phí đầu vào vẫn ở mức cao (chi phí logistics tăng, giá năng lượng tăng...). Từ diễn biến như vậy, ông dự báo như thế nào về triển vọng kinh tế Việt Nam trong 6 tháng cuối năm nay? Trong bối cảnh quốc tế như nêu trên cùng với kết quả tăng trưởng khả quan của 6 tháng đầu năm, môi trường pháp lý ngày càng được hoàn thiện, các động lực tăng trưởng (cả truyền thống và mới) được khai thác, phát huy hiệu quả cao hơn; kinh tế vĩ mô tiếp tục duy trì ổn định, các cân đối lớn được bảo đảm, niềm tin của doanh nghiệp và người dân được củng cố; tăng trưởng kinh tế Việt Nam 6 tháng cuối năm có khả năng đạt 6,3% đến 6,8% và cả năm có thể đạt 6,3% đến 6,5% (kịch bản cơ sở), đạt cận trên mục tiêu do Quốc hội và Chính phủ đề ra, hoặc có thể khả quan hơn, khoảng 6,5% đến 6,7% (kịch bản tích cực). Trong đó, tăng lương cơ sở có thể khiến GDP tăng thêm 0,3 điểm % đến 0,5 điểm %, lạm phát tăng thêm 0,2 điểm % đến 0,3 điểm % trong năm 2024 và có thể cao hơn trong năm 2025-2026. Về lạm phát, áp lực lạm phát trong 6 tháng cuối năm 2024 dự báo sẽ ở mức cao hơn cùng kỳ năm 2023 do yếu tố chi phí đẩy và cầu kéo. Về chi phí đẩy, giá năng lượng, giá nguyên vật liệu, chi phí logistics còn ở mức cao; việc điều chỉnh giá các mặt hàng do Nhà nước quản lý như tiền điện, học phí, tăng lương cơ sở, lương tối thiểu vùng theo lộ trình từ ngày 01/7/2024… Về cầu kéo, cung tiền dự báo tăng cao hơn cùng với đà phục hồi kinh tế. Để đạt kết quả tăng trưởng cao nhất, cần thực hiện những giải pháp gì, thưa ông? Để đạt được mục tiêu tăng trưởng, kiểm soát lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô năm 2024 như nêu trên, cần chú trọng một số giải pháp. Trước hết, cần đẩy mạnh hoàn thiện thể chế, tạo môi trường thuận lợi cho thúc đẩy tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô, tập trung vào: quyết liệt ban hành và thực thi hiệu quả hơn các chính sách, giải pháp tháo gỡ các vướng mắc (nhất là về pháp lý, định giá đất, hoàn thuế giá trị gia tăng, tiếp cận vốn, phát triển nhà ở xã hội, phòng cháy chữa cháy...); triển khai có hiệu quả Nghị định 73/2023/NĐ-CP về khuyến khích, bảo vệ cán bộ năng động, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung; kịp thời ban hành các Nghị định, Thông tư hướng dẫn Luật Đất đai 2024, Luật Nhà ở 2023, Luật Kinh doanh bất động sản 2023, Luật Các tổ chức tín dụng 2024... chính thức có hiệu lực từ 01/8/2024, cũng như các đạo luật vừa được Quốc hội thông qua nhằm đảm bảo nhất quán, đồng bộ và hiệu lực thực thi; sớm ban hành khung pháp lý nhằm tạo điều kiện phát triển kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn và chuyển đổi năng lượng như cơ chế thử nghiệm - Sandbox, cơ chế thí điểm, đề án phát triển thị trường tín chỉ carbon, danh mục phân loại xanh, Quy hoạch điện VIII, cơ chế mua – bán điện trực tiếp (DDPA)... Đồng thời, phát huy các động lực tăng trưởng truyền thống về xuất khẩu, đầu tư - nhất là đầu tư tư nhân, tiêu dùng; khai thác tốt hơn các động lực tăng trưởng mới từ kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, chuyển đổi năng lượng, liên kết vùng...; đẩy nhanh triển khai Quy hoạch điện VIII, cơ chế hỗ trợ các doanh nghiệp FDI khi Việt Nam áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu; quyết liệt cải thiện môi trường đầu tư - kinh doanh, góp phần thu hút, sử dụng hiệu quả vốn đầu tư, thúc đẩy tăng trưởng của các đầu tàu kinh tế như Hà Nội, Cần Thơ, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh cao hơn cả nước và tăng tính lan tỏa với các vùng và cả nước; đẩy mạnh giải ngân đầu tư công, sớm có phương án điều chuyển các cấu phần có tỷ lệ giải ngân thấp và bố trí ngân sách hỗ trợ phát triển các lĩnh vực mới, quan trọng như công nghệ cao, công nghiệp bán dẫn, chuyển đổi xanh, chuyển đổi năng lượng, phát triển thị trường tín chỉ carbon, nhà ở xã hội. Khải Anh

CẤP BÁCH ĐỔI MỚI HOẠT ĐỘNG DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC

Đổi mới doanh nghiệp nhà nước để đáp ứng bối cảnh mới đang là yêu cầu cấp bách đối với sự phát triển của kinh tế Việt Nam. Chuyên gia kinh tế - PGS.TS. Ngô Trí Long còn nhấn mạnh đây là nhiệm vụ chiến lược để đảm bảo sự phát triển và tồn tại của doanh nghiệp nhà nước, tiếp tục nâng cao năng lực cạnh tranh để đóng vai trò trụ cột của nền kinh tế.   Ông đánh giá như thế nào về vai trò của khối doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế nước ta hiện nay? Tới nay, doanh nghiệp nhà nước là lực lượng vật chất quan trọng của kinh tế nhà nước, đóng góp lớn vào phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh quốc phòng, an sinh xã hội, thực hiện các nhiệm vụ chính trị quan trọng do Đảng và Nhà nước giao, thể hiện vai trò nòng cốt trong một số ngành, lĩnh vực và tạo nguồn thu đáng kể cho ngân sách nhà nước, góp phần dẫn dắt, tạo động lực cho khu vực kinh tế ngoài nhà nước phát triển. Đặc biệt, chúng ta có thể thấy rõ trong giai đoạn dịch bệnh COVID-19, vai trò của khu vực doanh nghiệp nhà nước đã được phát huy, thể hiện rất rõ nét và hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao; vừa duy trì hoạt động sản xuất, kinh doanh, góp phần bảo đảm an sinh xã hội, ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế vừa tích cực tham gia phòng, chống dịch bệnh với tinh thần trách nhiệm cao, phản ứng chính sách kịp thời, bám sát thực tiễn để tham mưu, đề xuất với Chính phủ tháo gỡ các ách tắc, vướng mắc cho doanh nghiệp, góp phần giải quyết khó khăn cho đất nước. Bối cảnh kinh tế trong và ngoài nước đã và đang có những tác động ra sao tới doanh nghiệp nhà nước, thưa ông? Kinh tế nước ta đang có sự chuyển mình nhanh chóng từ nền kinh tế truyền thống sang nền kinh tế số, Chính phủ đang thực hiện các chính sách cải cách mạnh mẽ để thúc đẩy nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và quản lý tốt hơn các doanh nghiệp nhà nước… Hơn nữa, bối cảnh thế giới còn nhiều bất định với những biến động lớn về địa chính trị, khủng hoảng kinh tế và biến đổi khí hậu… ảnh hưởng sâu sắc đến chuỗi cung ứng và tạo sự cạnh tranh gay gắt.      Quá trình đổi mới và bối cảnh kinh tế như trên đang khiến các doanh nghiệp nhà nước đứng trước nhiều yêu cầu và thách thức để tiếp tục tồn tại và phát triển. Đó là doanh nghiệp nhà nước cần đổi mới sáng tạo, cải thiện năng suất và hiệu quả để cạnh tranh với khu vực tư nhân và thu hút đầu tư. Cùng với đó, cần đổi mới công nghệ, áp dụng công nghệ hiện đại và tự động hóa trong sản xuất và quản lý để tăng cường hiệu suất. Đặc biệt là phải chuyển đổi số, áp dụng chuyển đổi số trong quản lý và hoạt động kinh doanh để nâng cao khả năng thích ứng và cạnh tranh. Bên cạnh đó, trong bối cảnh thu hút đầu tư nước ngoài, các doanh nghiệp nhà nước phải  tăng tính minh bạch và trách nhiệm giải trình, tăng cường tính minh bạch trong hoạt động tài chính và quản lý. Nghĩa là, cần có hệ thống báo cáo và kiểm soát tài chính minh bạch để xây dựng lòng tin từ cổ đông và công chúng. Khi thị trường quốc tế còn nhiều khó khăn thì các doanh nghiệp nhà nước phải đổi mới mô hình kinh doanh, tìm kiếm các mô hình kinh doanh mới, phù hợp với xu hướng thị trường và nhu cầu khách hàng, đồng thời đáp ứng các yêu cầu về phát triển bền vững, đảm bảo hoạt động kinh doanh, không chỉ mang lại lợi nhuận mà còn có trách nhiệm với môi trường và xã hội để thích ứng với các yêu cầu ngày càng cao của thị trường xuất nhập khẩu hiện nay. Theo ông, đâu là những khó khăn của các doanh nghiệp nhà nước trong quá trình thực hiện những yêu cầu trên? Vấn đề dễ nhận thấy nhất là khó khăn trong quản lý đổi mới do việc thay đổi thói quen làm việc và văn hóa tổ chức có thể gặp nhiều trở ngại từ phía lãnh đạo và nhân viên. Có thể những nhóm lợi ích trong doanh nghiệp nhà nước không đồng tình với những thay đổi hoặc gây khó khăn cho quá trình đổi mới. Nhiều doanh nghiệp nhà nước vẫn gặp phải vấn đề về quản lý và điều hành, dẫn đến lãng phí nguồn lực, hoạt động không hiệu quả, nhất là vấn đề nguồn nhân lực khi áp dụng những công nghệ mới. Hơn nữa, do những quy định pháp luật và mô hình kinh doanh nhiều đặc thù, không ít doanh nghiệp nhà nước có thể gặp khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn, đặc biệt là trong bối cảnh kinh tế không ổn định. Thiếu nguồn lực đầu tư, nhất là việc thực hiện các chương trình đổi mới cần nguồn vốn lớn, nên nhiều doanh nghiệp nhà nước gặp khó khăn. Hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước còn chịu sự cạnh tranh từ khu vực tư nhân và khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI), trong khi khối doanh nghiệp nhà nước phải chịu áp lực từ sự thay đổi trong chính sách quản lý; nhiều doanh nghiệp còn gặp áp lực từ cổ phần hóa, thoái vốn và tái cấu trúc nên có thể gây ra xáo trộn trong hoạt động. Để khắc phục và đổi mới hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước, xin ông cho biết cần những giải pháp như thế nào? Đổi mới doanh nghiệp nhà nước lâu nay không chỉ là cần thiết, mà còn là một nhiệm vụ chiến lược để đảm bảo sự phát triển và tồn tại của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế hiện đại. Dù một vài năm gần đây, với sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và nỗ lực của các bộ, cơ quan, doanh nghiệp, công tác đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước đã đạt được một số kết quả tích cực. Nhưng còn một số bất cập, hạn chế còn tồn tại nên cần phải có những giải pháp mới và tạo sự đột phá hơn. Nhìn lại việc tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước những năm qua thì thấy công tác này chủ yếu triển khai bề rộng, mới chỉ quan tâm tới việc giảm số lượng các doanh nghiệp nhà nước, chưa đi sâu vào giải quyết mục tiêu chính của tái cơ cấu. Hầu hết doanh nghiệp mà Nhà nước nắm giữ 100% vốn chưa có sự thay đổi về chất, chủ yếu thay đổi về tên gọi, hình thức pháp lý như công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên; các tập đoàn, tổng công ty, công ty mẹ - công ty con còn tồn tại nhiều yếu kém về tài chính, nhân lực, quản lý. Vì thế, công tác này thời gian tới cần xác định rõ ràng vai trò của doanh nghiệp nhà nước, rà soát và xác định định hướng của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế, đảm bảo doanh nghiệp nhà nước hoạt động hiệu quả, không chồng chéo với khu vực kinh tế tư nhân. Đồng thời, cần phân định rõ ngành, nghề mà Nhà nước cần nắm giữ. Phân định rõ những ngành nào Nhà nước cần nắm giữ 100% vốn, ngành nào cần nắm giữ cổ phần chi phối, ngành nào không cần. Thông qua đó, thu hẹp số lượng ngành, nghề, lĩnh vực kinh doanh cần có doanh nghiệp nhà nước. Chúng ta chỉ nên tập trung hoạt động của doanh nghiệp nhà nước vào một số ngành, nghề, lĩnh vực đảm bảo lợi ích kinh tế quốc gia, quốc phòng, an ninh, dịch vụ công ích, kết cấu hạ tầng, khoa học công nghệ cao. Chính phủ cũng cần sớm ban hành đầy đủ các cơ chế, đặc biệt là các cơ chế xác định chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của cơ quan quản lý đại diện vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước, đơn vị đại diện có chức năng đến đâu, có quyền như thế nào cần được xác định và thể chế hóa. Qua đó tối ưu hóa nguồn lực, tập trung vào các lĩnh vực, ngành nghề có lợi thế cạnh tranh, giảm thiểu các hoạt động không hiệu quả. Ngoài ra, cần đẩy nhanh việc xử lý nợ, thoái vốn, hiệu quả, công khai, minh bạch; có cơ chế giám sát, phát hiện, xử lý kịp thời những vi phạm trong quá trình triển khai thực hiện. Tiếp tục đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước theo hướng thực chất và hiệu quả. Việc cơ cấu, sắp xếp, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước phải dựa trên nguyên tắc kinh tế thị trường. Nghiên cứu và sửa đổi những quy định không phù hợp đang cản trở quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, trong đó, trước hết, liên quan đến vấn đề xác định giá trị doanh nghiệp, chọn đối tác chiến lược, bán cổ phần ưu đãi cho người lao động, tăng tính xã hội ngay trong công ty cổ phần. Các doanh nghiệp nhà nước cũng cần tích cực đổi mới công nghệ, bởi đây là yếu tố then chốt để nâng cao hiệu quả hoạt động, cạnh tranh và đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững trong bối cảnh mới. Chính phủ đã có nhiều chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhà nước nâng cao công nghệ, nhưng việc triển khai còn chậm và chưa đồng bộ. Do đó, các doanh nghiệp nhà nước cần tăng cường đầu tư vào nghiên cứu và phát triển (R&D); tìm kiếm cơ hội hợp tác với các doanh nghiệp công nghệ để nâng cao năng lực cạnh tranh… Ngoài ra, các doanh nghiệp nhà nước cần nâng cao năng lực quản lý, đẩy mạnh công tác đào tạo nguồn nhân lực, cũng như đảm bảo minh bạch trong hoạt động, tài chính của doanh nghiệp nhà nước để tạo sự tin tưởng từ cộng đồng. Trước những thách thức về cạnh tranh, các cơ quan quản lý nên khuyến khích các hình thức hợp tác giữa doanh nghiệp nhà nước và khu vực tư nhân để tăng cường hiệu quả đầu tư, chia sẻ rủi ro… Cũng như nên sử dụng các công cụ tiếp thị hiện đại để nâng cao khả năng tiếp cận và nhận diện thương hiệu; tìm kiếm và xây dựng các kênh phân phối mới để tăng trưởng doanh thu. Có thể thấy, đổi mới doanh nghiệp nhà nước không chỉ là nhiệm vụ của riêng các doanh nghiệp mà còn cần sự hỗ trợ từ phía Nhà nước, các tổ chức xã hội và cộng đồng doanh nghiệp. Việc thực hiện các giải pháp trên sẽ giúp doanh nghiệp nhà nước phát triển bền vững, đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế của đất nước. Để thành công trong quá trình đổi mới trong bối cảnh mới cần có sự quyết tâm cao từ Đảng, Nhà nước, Chính phủ và lãnh đạo các doanh nghiệp nhà nước.      Theo Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp, đến nay, cả nước có 671 doanh nghiệp nhà nước bao gồm 6 tập đoàn kinh tế, 53 tổng công ty nhà nước và 19 Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên hoạt động theo mô hình công ty mẹ - con. Trong đó, tuy chỉ chiếm hơn 10% về số lượng, nhưng khối các tập đoàn, tổng công ty, công ty mẹ - con lại có vai trò kinh tế quan trọng, nắm giữ 92% tổng tài sản và 90% tổng vốn chủ sở hữu, 93% tổng doanh thu và 85% tổng đóng góp ngân sách nhà nước của doanh nghiệp nhà nước trên toàn quốc. Lũy kế 9 tháng năm 2024, lợi nhuận trước thuế của 19 tập đoàn, tổng công ty ước đạt gần 85.887 tỷ đồng, bằng 105% kế hoạch năm. Xin cảm ơn ông! Hương Dịu (thực hiện)

KỲ VỌNG TÍCH CỰC VỀ TĂNG TRƯỞNG GDP

Cuối năm 2024, nền kinh tế Việt Nam vẫn tiếp tục đón nhận nhiều kỳ vọng tích cực về tăng trưởng GDP. Với dự báo từ các tổ chức quốc tế và động lực từ chính sách trong nước, nhiều ý kiến lạc quan cho rằng, Việt Nam có khả năng vượt mục tiêu GDP mà Quốc hội đã đề ra. Để hiểu rõ hơn về những yếu tố thúc đẩy và các dự đoán cho tương lai, chúng tôi đã có buổi trao đổi với PGS. TS Đinh Trọng Thịnh, Nguyên Trưởng Khoa Tài chính quốc tế - Học viện Tài chính, quanh vấn đề này.     Thưa ông, chỉ còn hơn một tháng nữa là kết thúc năm 2024, nhiều ý kiến nhận định tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam năm nay sẽ vượt mục tiêu Quốc hội đề ra. Ông đánh giá như thế nào về nhận định này? Chắc chắn chúng ta sẽ hoàn thành mục tiêu này. Tôi cho rằng, hai tháng cuối năm 2024 chính là thời điểm nước rút mà nếu khai thác tốt, Việt Nam có thể tạo ra những kỳ tích mới chưa từng có trong lịch sử phát triển thời kỳ đổi mới. Nhìn vào các yếu tố kinh tế vĩ mô và dự báo tăng trưởng từ nhiều tổ chức quốc tế, tôi thấy những nhận định này là có cơ sở. Các tổ chức tài chính lớn đều tỏ ra lạc quan về tiềm năng tăng trưởng của Việt Nam. Ngân hàng Standard Chartered đã nâng dự báo tăng trưởng GDP của Việt Nam từ 6% lên 6,8%. Trong khi đó, HSBC dự báo Việt Nam sẽ tăng trưởng ở mức 7%, trở thành nền kinh tế phát triển nhanh nhất ASEAN. Đặc biệt, mặc dù tốc độ tăng trưởng có dấu hiệu chậm lại từ quý III, nhưng GDP vẫn duy trì ở mức ổn định, với mức dự báo cho quý IV là khoảng 6,9%.   Theo tôi, với các điều kiện thuận lợi hiện tại, tăng trưởng GDP cả năm của Việt Nam có thể đạt mức từ 7,2% đến 7,3%. Có vẻ như các yếu tố nội tại đang hỗ trợ rất tốt cho kinh tế Việt Nam, nhưng tác động của các yếu tố quốc tế, như quyết định hạ lãi suất của Fed, sẽ có ảnh hưởng thế nào đến chúng ta, thưa ông? Đúng vậy. Việc Fed hạ lãi suất gần đây có ảnh hưởng rất tích cực đến kinh tế Việt Nam, dù có độ trễ nhất định. Ngày 19/9/2024, lần đầu tiên kể từ khi đại dịch COVID-19 bùng phát, Fed đã giảm lãi suất 50 điểm cơ bản. Sau đó không lâu, vào tháng 11, Fed tiếp tục giảm 25 điểm cơ bản nữa, đưa lãi suất xuống khoảng 4,5% đến 4,75%. Động thái hạ lãi suất này mang đến hai tác động chính. Thứ nhất, nó giúp ổn định kinh tế vĩ mô Việt Nam vì Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của chúng ta, với tổng kim ngạch xuất khẩu sang Mỹ đạt 98,4 tỷ USD trong 10 tháng đầu năm, chiếm trên 29% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Thứ hai, với việc lãi suất giảm, đồng USD sẽ yếu hơn, đồng nghĩa với việc các nhà nhập khẩu Mỹ có xu hướng tiêu dùng nhiều hơn, hỗ trợ mạnh cho xuất khẩu của Việt Nam. Tuy nhiên, như đã nói, tác động sẽ không đến ngay mà có độ trễ. Ngoài ra, tăng trưởng của Việt Nam vẫn phụ thuộc vào tình hình kinh tế toàn cầu, các yếu tố như lạm phát, chính sách thương mại và sự ổn định nội tại. Dù vậy, tôi cho rằng năm 2024 vẫn sẽ là một năm tăng trưởng tốt, nhờ sự phục hồi của kinh tế thế giới và chính sách hỗ trợ từ Chính phủ. Sang năm 2025, nếu Fed tiếp tục lộ trình nới lỏng tiền tệ, Việt Nam sẽ còn có thể duy trì đà tăng trưởng ổn định hơn. Ông đánh giá như thế nào về tác động từ việc ông Donald Trump vừa đắc cử Tổng thống Mỹ lên nền kinh tế Việt Nam? Việc ông Trump trở lại Nhà Trắng có thể đem đến cả cơ hội và thách thức cho Việt Nam. Ở nhiệm kỳ trước, ông Trump từng có nhiều chính sách bảo hộ, và nếu ông tiếp tục xu hướng này, chắc chắn sẽ có ảnh hưởng nhất định đến nền kinh tế toàn cầu, trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, điểm sáng là Việt Nam vẫn có khả năng duy trì đà tăng trưởng ổn định. Với việc ông Trump cam kết đánh thuế 10% trên tất cả hàng nhập khẩu và mức thuế 60% đối với hàng từ Trung Quốc, Việt Nam có thể hưởng lợi từ vị thế cạnh tranh. Trong đó, các mặt hàng xuất khẩu có lợi thế về giá rẻ như cá tra, cá basa sẽ đặc biệt cạnh tranh tại thị trường Mỹ khi giá thành thấp hơn cá Mỹ và Trung Quốc, do đó có thể chiếm lĩnh một phần thị phần tại đây. Dĩ nhiên, Việt Nam cũng cần cảnh giác với khả năng Mỹ áp thuế lên hàng hóa của chúng ta, nhất là khi thương mại Mỹ - Việt ngày càng phát triển. Nhưng tôi tin rằng khả năng đánh thuế nặng lên hàng hóa Việt Nam là khá thấp. Việt Nam có lợi thế cạnh tranh không chỉ ở chi phí nhân công mà còn ở hạ tầng cải thiện và sự linh hoạt, nhanh nhạy của các doanh nghiệp trong nước. Chính điều này giúp chúng ta duy trì vị thế trong chuỗi cung ứng toàn cầu, bất chấp sự thay đổi từ chính sách thuế quan của Mỹ. Quốc hội vừa thông qua kế hoạch tăng trưởng GDP năm 2025 ở mức 6,5% đến 7%, ông nghĩ sao về mục tiêu này? Tôi cho rằng đây là một mục tiêu thận trọng, nhưng hoàn toàn có thể vượt qua được. Nếu không có yếu tố bất ngờ như thiên tai, chiến tranh, hay tình hình lãi suất thay đổi mạnh mẽ, Việt Nam hoàn toàn có thể đạt được mức tăng trưởng vượt mức mục tiêu. Tôi dự báo hai kịch bản cho nền kinh tế Việt Nam trong năm 2025. Ở kịch bản thận trọng, chúng ta sẽ có mức tăng trưởng GDP từ 6,8% đến 7,3% với lạm phát ổn định trong khoảng 3,2% đến 3,5%. Còn trong kịch bản tích cực, GDP có thể đạt từ 7,3% đến 7,8% và lạm phát nằm trong mức 3,5% đến 3,8%. Để hiện thực hóa các mục tiêu này, chúng ta cần tập trung vào việc duy trì các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, thu hút vốn đầu tư nước ngoài và cải thiện hạ tầng để tối ưu hóa chi phí và thời gian vận chuyển. Ông có nghĩ rằng cải cách hành chính sẽ đóng vai trò lớn trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong thời gian tới? Cải cách hành chính là yếu tố then chốt để thúc đẩy nền kinh tế phát triển bền vững. Để đạt được các mục tiêu đặt ra, Chính phủ cần tiếp tục tinh giản thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển. Hiện tại, nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa, đang gặp khó khăn vì thủ tục hành chính phức tạp, mất nhiều thời gian và chi phí. Đơn giản hóa quy trình đăng ký, cấp phép và giảm bớt các thủ tục không cần thiết sẽ giúp doanh nghiệp tiết kiệm được chi phí, từ đó tạo động lực để mở rộng hoạt động sản xuất và đầu tư. Bên cạnh đó, các dự án đầu tư công cũng cần được triển khai đúng tiến độ để nâng cao chất lượng cơ sở hạ tầng, giúp kết nối và mở rộng giao thương. Việc đầu tư mạnh vào hạ tầng không chỉ giúp giảm chi phí logistics mà còn tăng tính cạnh tranh cho hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam trên thị trường quốc tế. Ông có thể đưa ra một kết luận về triển vọng kinh tế của Việt Nam trong năm tới không, thưa ông? Việt Nam đang ở trong giai đoạn rất thuận lợi để phát triển. Với tốc độ tăng trưởng ổn định, khả năng cạnh tranh và chính sách hỗ trợ từ Chính phủ, tôi tin rằng chúng ta sẽ tiếp tục là một điểm sáng của kinh tế ASEAN. Cùng với đó, doanh nghiệp Việt Nam ngày càng cải thiện về khả năng cạnh tranh quốc tế, không chỉ nhờ vào nguồn nhân công giá rẻ mà còn ở chất lượng sản phẩm và khả năng đáp ứng nhanh chóng với yêu cầu thị trường. Điều này giúp Việt Nam tạo dựng uy tín và duy trì đà phát triển ổn định. Tuy nhiên, trong bối cảnh kinh tế toàn cầu không ngừng biến động, Việt Nam cần duy trì chính sách linh hoạt, cải cách hành chính, và nâng cao năng lực nội tại của các ngành sản xuất chủ lực để ứng phó với những thách thức trong tương lai. Vẫn còn nhiều điều kiện để Việt Nam vươn lên trở thành một nền kinh tế phát triển hơn trong khu vực và trên toàn cầu, nếu chúng ta duy trì chiến lược và sự đoàn kết hiện tại. Trân trọng cảm ơn ông! Thu Lý (thực hiện)