Đại hội đồng UNESCO họp năm 1990 nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đánh giá “Sự đóng góp quan trọng về nhiều mặt của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong các lĩnh vực văn hóa, giáo dục và nghệ thuật là kết tinh truyền thống văn hóa hàng ngàn năm của nhân dân Việt Nam và những tư tưởng của người là hiện thân của những khát vọng của dân tộc trong việc khẳng định bản sắc dân tộc của mình” và quyết định công nhận người là “ Anh hùng dân tộc và Danh nhân văn hóa thế giới”.
Việc tìm hiểu “ Tư tưởng Hồ Chí Minh với tôn giáo tín ngưỡng” là việc làm thiết thực nhân dịp kỷ niệm 123 năm ngày sinh của người( 19-5-1890- 19-5-2013) và hưởng ứng cuộc vận động “ Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Bài viết góp phần luận giải, trao đổi và tìm hiểu về tôn giáo, tín ngưỡng trong tư tưởng Hồ Chí Minh và rút ra được những bài học về công tác tôn giáo và tín ngưỡng trong giai đoạn hiện nay.
Tổng quan về tôn giáo và tín ngưỡng
Như chúng ta đã biết tín ngưỡng và tôn giáo là hiện tượng xã hội đa chiều, vì vậy khái niệm tín ngưỡng, tôn giáo và mê tín dị đoan đang có nhiều ý kiến khác nhau. Tín ngưỡng là niềm tin của con người vào những điều thiêng liêng, huyền bí vượt khỏi thế giới tự nhiên.Trong thời gian gần đây vấn đề tôn giáo và tín ngưỡng thường được gắn với yếu tố “tâm linh” không những trong cuộc sống đời thường, trên nhiều trang sách báo trong nước, sách báo nhập vào nước ta, các diễn đàn hay hội thảo khoa học, các phương tiện thông tin đại chúng và cả nhưng văn bản của các cơ quan nhà nước, người ta hay nhắc tới chữ “ tâm linh” để diễn đạt những khía cạnh thiêng liêng bí ẩn nào đó. Như vậy tín ngưỡng và tôn giáo đồng nghĩa với tâm linh. Tác giả Lê Minh đã viết “ Trong đời sống con người, ngoài mặt hiện hữu còn có mặt tâm linh. Về mặt cá nhân đã như vậy, mà mặt cộng đồng (gia đình, làng xã, dân tộc) cũng như vậy. Nếu mặt hiện hữu của đời sống con người có thể nhận thức qua những tiêu chuẩn cụ thể sờ mó được, có thể đánh giá qua những cái cụ thể nhất định thì về mặt tâm linh bao giờ cũng gắn với cái gì đó rất trừu tượng, rất mông lung, nhưng lại không thể thiếu được ở con người. Con người sở dĩ trở thành con người một phần căn bản là do nó có đời sống tâm linh. Nghĩa là tuân theo những giá trị bắt nguồn từ cái thiêng liêng, cái bí ẩn, những giá trị tạo thành đời sống tâm linh của nó. Những giá trị tâm linh ấy hết sức bền vững và có thể nói là hằng số của văn hóa gia đình. Không một sự thay đổi nào về trạng thái xã hội về giá trị cấu trúc và giá trị chức năng của gia đình có thể làm cho những giá trị tâm linh ấy mất đi. Giá trị văn hóa tâm linh của văn hóa gia đình vẫn tồn tại vĩnh cửu chừng nào con người còn tồn tại” [ 6; 36]. Còn theo tác giả Vũ Tự Lập trong “ Văn hóa và cư dân sông Hồng” thì “ Cái cột chặt con người trong làng xã không phải chỉ có quan hệ hữu hình như lãnh thổ, quyền sở hữu kinh tế - xã hội mà còn có nhiều quan hệ khác đó là thế giới tâm linh, những biểu tượng, thần tượng, những kỳ vọng vươn tới Chân- Thiện – Mỹ. Đời sống tâm linh là cái nền vững chắc nhất của mối quan hệ cộng đồng làng xã. Thế giới tâm linh là thế giới của cái thiêng liêng, mà ở đó chỉ có cái gì cao cả, lương thiện và đẹp đẽ mới có thể vươn tới. Cả cộng đồng tôn thờ và cố kết nhau lại trên cơ sở cái thiêng liêng ấy” [7; 115].
Còn GS. Đặng Nghiêm Vạn trong chuyên luận viết về các tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam đã viết “ Tầng lớp quý tộc tiếp nhận tôn giáo như là một công cụ để trị nước, trị dân. Nhân dân lao động lại xem tôn giáo như là một cứu cánh để thỏa mãn tâm linh tôn giáo của bản thân” khi nói về thời kỳ phong kiến đế quốc.[ 9; 205]. Socrate cũng đã từng nói: “ Cuộc sống là chung cho mọi cây cỏ nhưng chỉ có con người mới có linh hồn. Con người sỡ dĩ thành con người một phần căn bản là do nó có đời sống tâm linh, nghĩa là tuân theo, tôn thờ những giá trị không vụ lợi, những giá trị bắt nguồn từ cái thiêng và cái bí ẩn, hai yếu tố tạo thành đời sống tâm linh” [ 3; 347].
Có thể nói sự chết gắn liền với thế giới tâm linh và đó chính là tình cảm chỉ có ở con người và không thể có bất kỳ loài động vật nào dù cao cấp đến đâu. Và chính K. Marx gọi đó là “ Tình cảm tôn giáo” không thể thiếu vắng trong cuộc sống của con người. Ông viết “ Nếu trong trái tim con người có một tình cảm xa lạ với tất cả số còn lại của các loài động vật, một tình cảm tái sinh lại mãi, dù cho vị trí con người ở đâu, phải chăng tình cảm đó là một quy luật cơ bản của bản chất con người? Theo chúng tôi đó là tình cảm tôn giáo” [ 9; 425].
Tôn giáo và tín ngưỡng trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho thế hệ sau những di sản tư tưởng quý giá, trong đó có những quan điểm của người về tín ngưỡng tôn giáo. Những lời di huấn, các bài viết, những cử chỉ hành động cũng như phong cách ứng xử của Người đối với các tôn giáo, tín đồ, chức sắc tôn giáo là những bài học quý báu đối với chúng ta. Tư tưởng đoàn kết tôn giáo, hòa hợp dân tộc và tôn trọng, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tự do không tín ngưỡng là nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo, tín ngưỡng. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo tín ngưỡng hay tâm linh là một bộ phận quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung.
Cơ sở xuất phát của tư tưởng Hồ Chí Minh về tự do tín ngưỡng tôn giáo, là tôn trọng đức tin của mỗi người. Hồ Chí Minh nói: “ Tất cả mọi người đều có quyền nghiên cứu một chủ nghĩa. Riêng tôi, tôi nghiên cứu chủ nghĩa Các Mác” [ 3 tập 4; 272]. Và người nhấn mạnh rằng “ tín đồ Phật giáo tin ở Phật; tín đồ Gia Tô giáo tin ở Đức Chúa Trời; cũng như chúng ta tin ở đạo Khổng. Đó là những vị chí tôn nên chúng ta tin tưởng” [ 3-T4; 148] Và khi trả lời một nhà báo phương Tây Hồ Chí Minh còn khẳng định “Tôi cố gắng làm người học trò nhỏ của các vị ấy”.
Năm 1945, chỉ một ngày sau khi đọc “ Tuyên ngôn độc lập”, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời(3-9-1945) Hồ Chủ tịch đã phát biểu: “ Tôi đề nghị Chính phủ ta tuyên bố: Tín ngưỡng tự do, lương giáo đoàn kết”[3; 9]. Chính phủ bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và tự do thờ cúng của nhân dân. Không ai được xâm phạm quyền tự do ấy. Mọi người Việt Nam đều có quyền tự do theo một tôn giáo hoặc không theo một tôn giáo nào. Về vấn đề này Người nhấn mạnh: “ Trong Hiến pháp ta đã định rõ: Tín ngưỡng tự do. Nếu ai làm sai hiến pháp,... thì sẽ bị phạt” [3-T.5; 44].
Hồ Chí Minh rất chú trọng đến tín ngưỡng truyền thống ở Việt Nam, nhất là tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên mà người cho rằng : “Việc cúng bái tổ tiên hoàn toàn là một hiện tượng xã hội”[3-T1;479].
Nhận thấy vai trò hết sức quan trọng đối với các di tích, danh lam thắng cảnh và vùng đất linh thiêng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh Số 65 ngày 23/11/1945; “ Bảo tồn tất cả cổ tích trong toàn cõi Việt Nam, cấm phá hủy đình, chùa, đền, miếu, các cổ vật, thành quách, lăng mộ, chiếu sắc, văn bằng...có ích cho lịch sử”, đồng thời Hồ Chí Minh dự thảo và Quốc hội (QH) thông qua Hiến pháp (1946). Văn bản quan trọng nhất, ghi nhận đường lối, thể chế, chính sách của Nhà nước cộng hòa dân chủ nhân dân đầu tiên trong lịch sử, trong đó có quyền “Tự do tín ngưỡng..”, khác với hiến pháp của một số nước cách mạng thời bấy giờ đã xóa bỏ quyền tự do tín ngưỡng.
Trọn đời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến với hàng chục di tích linh thiêng nhất của đất nước như đền Hùng, chùa Hương, chùa Côn Sơn, chùa Quán Sứ, chùa Trầm, chùa Thầy, đền Ngọc Sơn, đền Cổ Loa... và luôn luôn tôn trọng không hề bài bác các tôn giáo, tín ngưỡng và phong tục truyền thống của nhân dân. Người hết sức trân trọng giá trị tâm linh, thắp hương khởi phát giá trị linh diệu của các bậc Thánh, Phật, Chúa, Thần, anh linh anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa.Duy nhất trước Phật đài tôn nghiêm, Người đọc lời thề: “Trước Phật đài tôn nghiêm, trước quốc dân đồng bào... tôi xin thề hi sinh đem thân phấn đấu để giữ vững nền độc lập cho Tổ quốc...hy sinh cả tính mạng tôi cũng không từ. Tôi kính cẩn cầu nguyện Đức Phật bảo hộ Tổ quốc và đồng bào ta”[1;51].
Sau 30 năm bôn ba khắp năm châu, bốn biển để tìm đường cứu nước, đầu năm 1941, Người về nước không có bất cứ thứ gì ngoài hai bàn tay trắng, không quân đội không vũ khí, không tiền bạc, khu căn cứ cũng sơ sài mỏng manh. Người bảo vệ, cộng sự gần gũi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ông Dương Đại Lâm đã kể lại: “Thời gian ở Khuổi Nậm (Pắc Bó), đầu năm 1942, Người đã dời lán cũ lên lán trên ở sâu trong rừng...ở một gốc cây to gần lán có đặt một phiến đá dán giấy đỏ viết chữ nho, lại có tranh Phật Bà Quan Âm và câu đối đỏ dán ở vách...” [1;51].Như vậy chúng ta thấy rằng nơi sống và làm việc của mình, Hồ Chí Minh đã đặt bát hương để thờ Phật Bà Quan Âm và Thổ thần.
Trong bản thảo Di chúc đầu tiên của mình, viết vào năm 1968, trong vô vàn công việc nhưng Hồ Chí Minh không quên vong linh các anh hùng liệt sỹ, Người đã viết: “ Đối với các liệt sỹ, mỗi địa phương (TP, làng xã) cần xây dựng vườn hoa và bia kỷ niệm ghi nhớ sự hy sinh anh dũng của các liệt sỹ..,”. Thực hiện lời dạy của Người, trên toàn lãnh thổ Việt Nam từ Trung ương, tỉnh, huyện, xã, làng bản đều xây dựng bia tưởng niệm, đài liệt sỹ để ghi nhận công lao của các liệt sỹ đối với đất nước và là một việc làm hiếm có trên thế giới.
Từ chủ nghĩa yêu nước, Hồ Chí Minh đã đến với chủ nghĩa Mác-Lênin với khát vọng giành độc lập cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân.Qua thực tiễn hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho toàn Đảng, toàn dân ta muôn vàn tình thân yêu và những di sản văn hóa vô giá. Tư tưởng của Người về tín ngưỡng, tôn giáo và tâm linh là sự vận dụng sáng tạo những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về tín ngưỡng tôn giáo trong sự hài hòa với bản sắc văn hóa dân tộc và văn hóa phương Đông. Người là cốt cách của bản sắc văn hoá Việt Nam là sự kết tinh tinh hoa của nhân loại và trở thành anh hùng dân tộc và danh nhân văn hoá thế giới. Hồ Chí Minh mang cả dấu ấn của Nho- Phật - Đạo. Người vừa có cốt cách nhân đạo của Ghăngđi, phẩm chất cách mạng và tư duy biện chứng của Mác và Lênin, cốt cách đạo đức của Khổng Tử.. Nhưng vẫn hoàn toàn Việt Nam[ 5].
Những bài học từ tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng và tôn giáo
1. Dù cho văn hóa của loài người rất đa dạng, nhưng con người vẫn tin rằng bên cạnh đời sống thực của họ vẫn còn có thế giới “bên kia”- thế giới tâm linh gắn với nó là tín ngưỡng tôn giáo và với khát vọng khám phá, tìm kiếm và mong muốn giải thích và đây là một nhu cầu mãnh liệt mà không một ai có thể ngăn cản được. Hiện tại con người chỉ có thể bằng trực cảm, bằng những trải nghiệm phong phú của mình mà cảm nhận được chứ chưa chứng minh lý giải được một cách thấu đáo và thuyết phục về tín ngưỡng tôn giáo và thế giới tâm linh và cuộc sống tâm linh. Là một vấn đề khoa học chúng ta chỉ có thể phủ định khi chúng ta có đầy đủ bằng chứng hay cứ liệu và ngược lại chúng ta sẽ ủng hộ khi chúng ta có đầy đủ bằng chứng và cứ liệu xác thực, do đó chúng ta không thể vội vàng bác bỏ, cấm đoán khi mà chúng ta chưa có cứ liệu xác đáng và sự hiểu biết thấu đáo, chúng ta cứ xem đó như một giả thiết khoa học mà chúng ta có trách nhiệm phải giải đáp trong tương lai. Cuộc sống tín ngưỡng, tôn giáo và thế giới tâm linh là một thực tế tuy chưa được kiểm chứng nhưng đã là con người thì ai cũng bận tâm đến tín ngưỡng và thế giới tâm linh và luôn khát vọng hướng tới nó. Do vậy, Đảng và Nhà nước cần phải quan tâm đến nó một cách đầy đủ để từ đó có những chính sách định hướng hoạt động lành mạnh trong cuộc sống tín ngưỡng tâm linh của nhân dân .
2. Chủ tịch Hồ chí Minh luôn hướng những người có tín ngưỡng tôn giáo cũng như những người không có tín ngưỡng tôn giáo đoàn kết để phấn đấu cho lợi ích chung của dân tộc. Để làm tốt công tác quản lý về vấn đề tôn giáo và tâm linh Nhà nước phải quan tâm chăm lo đến phần đời và phần đạo của quần chúng nói chung và các tín đồ các tôn giáo nói riêng.
3. Giữ gìn và phát huy truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh và nhớ ơn những người có công với Tổ quốc, dân tộc và nhân dân. Nhà nước tôn trọng và thực hiện đầy đủ quyền lợi tự do tín ngưỡng, tôn giáo và tâm linh của người dân nhưng cương quyết xử lý những phần tử lợi dụng tín ngưỡng tôn giáo, hoạt động mê tín dị đoan đi ngược lại lợi ích của quốc gia và dân tộc, lợi dụng cuộc sống tâm linh để vi phạm pháp luật. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng phê phán những kẻ nhân danh tôn giáo làm tay sai cho địch, hại dân hại nước;chúng không chỉ là “Việt gian mà còn là giáo gian”[14;64] .
4. Nhà nước phải kiên trì tuyên truyền giải thích cho đồng bào,tín đồ các tôn giáo hiểu rõ chính sách về tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng và Nhà nước để họ tự giác thực hiện và đấu tranh chống âm mưu lợi dụng tôn giáo trong chiến lược “ Diễn biến hòa bình” để chống phá cách mạng Việt Nam. Đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, xây dựng cuộc sống mới theo phương châm “ Sống tốt đời, đẹp đạo” trong quần chúng tín đồ, chức sắc tôn giáo, người tu hành. “Tốt đời, đẹp đạo” là thực hiện tốt những yêu cầu của một tín đồ đối với tôn giáo mà mình theo, không để kẻ xấu lợi dụng phá hoại cách mạng;đồng thời phải thực hiện tốt trách nhiệm của một công dân đối với đất nước. Làm cho mọi tín đồ của mỗi tôn giáo nhận thức được rằng, muốn trở thành một tín đồ tốt trước hết phải là một công dân tốt.