Luật KTNN đã quy định: KTNN là cơ quan chuyên môn về lĩnh vực kiểm tra tài chính nhà nước do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, KTNN có chức năng kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán tuân thủ, kiểm toán hoạt động đối với cơ quan, tổ chức quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước;
mục đích của hoạt động kiểm toán của KTNN nhằm phục vụ việc kiểm tra, giám sát của Nhà nước trong quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước; góp phần thực hành tiết kiệm, chống tham nhũng, thất thoát, lãng phí, phát hiện và ngăn chặn hành vi vi phạm pháp luật; nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách, tiền và tài sản Nhà nước.
Phần lớn nhiệm vụ quan trọng mà cơ quan KTNN phải thực hiện nhằm đáp ứng theo yêu cầu của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các Ủy ban của Quốc hội như: Quyết định kế hoạch kiểm toán hàng năm và báo cáo với Quốc hội, Chính phủ trước khi thực hiện; tổ chức thực hiện kế hoạch kiểm toán hàng năm và thực hiện nhiệm vụ kiểm toán theo yêu cầu của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; trình ý kiến của KTNN để Quốc hội xem xét, quyết định dự toán ngân sách nhà nước, quyết định phân bổ ngân sách trung ương, quyết định dự án, công trình quan trọng quốc gia, phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước; tham gia với Uỷ ban Tài chính và ngân sách của Quốc hội và các cơ quan khác của Quốc hội, Chính phủ trong việc xem xét, thẩm tra báo cáo về dự toán ngân sách nhà nước, phương án phân bổ ngân sách trung ương, phương án điều chỉnh dự toán ngân sách nhà nước, phương án bố trí ngân sách cho dự án, công trình quan trọng quốc gia do Quốc hội quyết định và quyết toán ngân sách nhà nước; tham gia với Uỷ ban Kinh tế, Ủy ban Tài chính và Ngân sách của Quốc hội khi có yêu cầu trong hoạt động giám sát việc thực hiện luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về lĩnh vực kinh tế, tài chính - ngân sách, giám sát việc thực hiện ngân sách nhà nước và chính sách tài chính; tham gia với các cơ quan của Chính phủ, của Quốc hội khi có yêu cầu trong việc xây dựng và thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh; báo cáo kết quả kiểm toán năm và kết quả thực hiện kiến nghị kiểm toán với Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội; gửi báo cáo kiểm toán cho Hội đồng Dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội...
Để có được sự phối hợp chặt chẽ giữa Quốc hội, các cơ quan chức năng của Quốc hội với cơ quan chuyên môn do Quốc hội thành lập như KTNN nhằm đảm bảo cho mọi hoạt động của KTNN phục vụ tốt nhất cho Quốc hội, KTNN đã chủ động xây dựng các mối quan hệ với các Ủy ban chuyên môn của Quốc hội bằng việc xây dựng Quy chế phối hợp công tác.
KTNN và Uỷ ban Kinh tế của Quốc hội đã ký kết Quy chế phối hợp công tác giữa hai bên. Những điểm chính trong phạm vi phối hợp hai bên bao gồm: Cung cấp thông tin, số liệu chuẩn bị cho các báo cáo thẩm tra về kinh tế - xã hội hàng năm; phối hợp nghiên cứu, chuẩn bị nội dung các dự án luật; phối hợp công khai kế hoạch kiểm toán và kết quả kiểm toán; giám sát việc thực hiện các luật, nghị quyết về lĩnh vực doanh nghiệp, thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán... Việc phối hợp được thực hiện trên nguyên tắc bảo đảm tính độc lập, khách quan trong hoạt động của KTNN và hoạt động thẩm tra, giám sát của Uỷ ban Kinh tế của Quốc hội.
Qua thực hiện quy chế, hai cơ quan đã tiến hành đánh giá kết quả thực hiện kế hoạch phối hợp hoạt động. Theo đó, hai cơ quan đã phối hợp thực hiện nhiều hoạt động, góp phần tích cực vào hoàn thành nhiệm vụ chung của Quốc hội. Việc trao đổi, cung cấp thông tin thường xuyên giữa lãnh đạo 2 cơ quan cũng như của các cơ quan tham mưu và việc mời đại diện của mỗi bên tham gia hoạt động có liên quan của bên đối tác đã bổ trợ cho hoạt động của mỗi bên có hiệu quả. Nổi bật là việc phối hợp phục vụ Đoàn giám sát của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về việc thực hiện chính sách pháp luật về quản lý, sử dụng vốn nhà nước tại các Tập đoàn, Tổng công ty nhà nước; thực hiện kiểm toán một số doanh nghiệp theo yêu cầu của Ủy ban Thường vụ Quốc hội để phục vụ hoạt động của Đoàn giám sát; Lãnh đạo Kiểm toán Nhà nước và Ủy ban Kinh tế đã có buổi làm việc để trao đổi những vấn đề liên quan đến hoạt động quản lý và sử dụng vốn nhà nước tại Tập đoàn, Tổng công ty Nhà nước; tổ chức tọa đàm giới thiệu về dự án Luật kiểm toán độc lập nhằm lấy ý kiến đóng góp của các Đại biểu Quốc hội, của các cơ quan hữu quan và của chuyên gia trong lĩnh vực này…, ngoài ra, KTNN đã cung cấp nhiều thông tin, số liệu tin cậy, xác thực cho Uỷ ban Kinh tế của Quốc hội trong quá trình chuẩn bị báo cáo thẩm tra Kinh tế - Xã hội. Đại diện Thường trực Ủy ban Kinh tế đã tham gia và phối hợp trong việc họp báo công khai Kế hoạch kiểm toán năm; kết quả kiểm toán năm và báo cáo kết quả thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán năm; kết quả một số cuộc kiểm toán.
Bên cạnh đó, hai cơ quan cũng nhìn nhận những mặt hạn chế trong quá trình phối hợp, như: (i) Ủy ban Kinh tế của Quốc hội chưa mời đại diện của KTNN tham gia hoạt động giám sát thực tế tại các địa phương của Ủy ban Kinh tế về tình hình kinh tế - xã hội và các giám sát chuyên đề khác của Ủy ban Kinh tế; (ii) Sự phối hợp trong công tác giám sát việc thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán do Uỷ ban Kinh tế chủ trì, việc phối hợp giữa hai cơ quan trong việc hội thảo về vai trò của Kiểm toán Nhà nước đối với việc thẩm định, tham gia ý kiến về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội chưa được triển khai; (iii) Việc tham gia góp ý của Kiểm toán Nhà nước đối với các dự án luật, pháp lệnh do Ủy ban Kinh tế chủ trì thẩm tra trước khi trình Quốc hội vẫn còn hạn chế; (iv) Chưa tổ chức họp kiểm điểm đánh giá định kỳ việc thực hiện quy chế phối hợp giữa hai cơ quan…
Ngoài ra, KTNN và Ủy ban Tài chính - Ngân sách (UBTCNS) của Quốc hội cũng đã ký kết Quy chế phối hợp công tác. Bản Quy chế với mục đích tăng cường sự phối hợp chặt chẽ, nâng cao hiệu quả và thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của hai cơ quan, gồm các vấn đề: Chuẩn bị nội dung Kế hoạch kiểm toán hàng năm trước khi Tổng KTNN quyết định và báo cáo Quốc hội; thẩm tra về đánh giá tình hình thực hiện và dự toán ngân sách nhà nước, phương án phân bổ ngân sách trung ương, bố trí ngân sách cho dự án, công trình quan trọng quốc gia trình Quốc hội quyết định; thẩm tra về kiểm toán Báo cáo quyết toán ngân sách nhà nước hàng năm và quyết toán ngân sách các chương trình, dự án quan trọng, báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Quốc hội; tổ chức công bố công khai kết quả kiểm toán hàng năm và một số cuộc kiểm toán có phạm vi rộng, ảnh hưởng lớn; giám sát việc thực hiện Luật, Nghị quyết của Quốc hội, Pháp lệnh, Nghị quyết và ý kiến của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về lĩnh vực tài chính - ngân sách, giám sát việc chấp hành dự toán ngân sách nhà nước và chính sách tài chính; kiểm tra, giám sát việc thực hiện kết luận, kiến nghị của KTNN; cung cấp thông tin về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ liên quan đến chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của hai cơ quan về lĩnh vực kiểm toán; tổng kết, đánh giá việc thực hiện Luật KTNN để sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình thực tế; phối hợp soạn thảo các văn bản hướng dẫn thi hành Luật KTNN, các văn bản liên quan đến tổ chức, hoạt động của KTNN.
Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật quy định, UBTCNS và KTNN tạo điều kiện cho mỗi cơ quan thực hiện trên tinh thần chủ động phối hợp bảo đảm trình tự, thủ tục, chương trình, kế hoạch làm việc được quy định tại Quy chế này, đó là: UBTCNS đã cung cấp cho KTNN các thông tin có liên quan đến công tác lập kế hoạch kiểm toán hàng năm, các vấn đề cần tập trung trong kế hoạch kiểm toán và các ý kiến khác để KTNN hoàn thiện kế hoạch kiểm toán năm; UBTCNS đã mời đại diện KTNN tham gia và cho ý kiến khi thẩm tra dự toán NSNN; hai bên tổ chức các cuộc làm việc trao đổi ý kiến về kế hoạch và các nội dung thẩm tra quyết toán NSNN; UBTCNS đã mời đại diện KTNN tham dự phiên họp thẩm tra chính thức báo cáo quyết toán NSNN để tham gia ý kiến và cung cấp thông tin về những vấn đề nổi bật trong quá trình thực hiện kế hoạch và kết quả kiểm toán năm có liên quan đến quyết toán NSNN của niên độ thẩm tra; KTNN đã chủ trì, phối hợp với UBTCNS tổ chức các cuộc họp báo công khai kết quả kiểm toán năm và kết quả kiểm toán của một số cuộc kiểm toán quan trọng; KTNN tham gia các cuộc làm việc, các Đoàn giám sát có liên quan và cung cấp các thông tin có liên quan đến việc chấp hành các Luật, Nghị quyết, chính sách… về lĩnh vực ngân sách, chính sách tài chính thông qua kết quả hoạt động kiểm toán của mình; hai bên thường xuyên phối hợp chặt chẽ trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, tổ chức các cuộc tọa đàm, hội thảo để chia sẽ thông tin và kinh nghiệm liên quan; trong quá trình xây dựng và soạn thảo các văn bản quy phạm pháp luật theo chương trình kế hoạch của mình, KTNN đã phối hợp chặt chẽ với UBTCNS trong việc trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội phê chuẩn các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật …
Qua thực hiện quy chế cho thấy hai bên đã có sự phối hợp chặt chẽ ở phần lớn các nội dung đã được ký kết, song UBTCNS của Quốc hội và KTNN cũng đã nhìn nhận còn một số công việc chưa được triển khai thực hiện hoặc quá trình thực hiện còn hạn chế như: (i) Việc tham gia của KTNN vào hoạt động giám sát, thẩm tra của UBTCNS đôi khi còn bị động, trong một số trường hợp KTNN không có đủ thời gian, tài liệu và nhân lực để nghiên cứu và chuẩn bị ý kiến của mình một cách tốt nhất, do vậy chất lượng tham gia ý kiến còn hạn chế. Hơn nữa, để phục vụ hoạt động giám sát hàng năm một cách chủ động, UBTCNS cũng chưa đưa ra những yêu cầu cụ thể xuất phát từ nhiệm vụ hàng năm của mình để KTNN có thể xem xét lựa chọn đưa vào kế hoạch kiểm toán năm phục vụ cho giám sát; ngược lại, trong một số trường hợp UBTCNS cũng chưa sử dụng triệt để các thông tin từ kết quả kiểm toán do KTNN cung cấp để phục vụ cho hoạt động của mình; (ii) Một số hoạt động giám sát của UBTCNS chưa có sự tham gia của KTNN hoặc có tham gia nhưng chưa thực sự có ý kiến, thảo luận một cách sâu sắc, đôi khi mang tính hình thức, sự vụ và chưa có hệ thống; kết quả kiểm toán của KTNN cũng chưa được khai thác, sử dụng triệt để thông qua UBTCNS để nâng cao tính hiệu lực, có căn cứ tham mưu cho Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội nâng cao chất lượng hoạt động của mình; (iii) Việc chuẩn bị tài liệu cho các phiên họp của UBTCNS còn bị động, nhất là trong việc tham gia dự toán và quyết toán ngân sách nhà nước làm giảm hiệu quả và gây khó khăn cho việc tham gia ý kiến, như: KTNN không có trước các tài liệu của Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư gửi cho UBTCNS; thời gian yêu cầu gửi báo cáo kết quả kiểm toán NSNN đôi khi không phù hợp với thời gian quy định của Luật NSNN, Luật KTNN; một số nội dung theo đề nghị của UBTCNS chưa được cụ thể, chưa gắn với hoạt động của KTNN dẫn đến tham gia ý kiến còn hạn chế hoặc không tham gia được; (iv) Một số nội dung quy định cụ thể trong Quy chế phối hợp chưa triển khai thực hiện, như: UBTCNS chưa gửi dự thảo báo cáo thẩm tra dự toán, quyết toán NSNN trình Quốc hội cho KTNN để KTNN đối chiếu với những nhận xét, đánh giá và số liệu dự toán, quyết toán NSNN trong các báo cáo, thông tin do KTNN cung cấp; việc phối hợp trong kiểm tra, giám sát tình hình thực hiện các kết luận, kiến nghị của đơn vị được kiểm toán chưa đầy đủ, kịp thời ảnh hưởng đến hiệu lực của KTNN và công tác giám sát của Quốc hội, UBTCNS; KTNN chưa được mời tham gia ý kiến về phương án điều chỉnh dự toán NSNN do Chính phủ trình để báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội; việc tham gia ý kiến về phương án bố trí ngân sách cho các dự án, công trình quan trọng quốc gia thuộc thẩm quyền của Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư; việc sơ kết, tổng kết và đề xuất sửa đổi, bổ sung Luật KTNN sau 05 năm thực hiện…
Để KTNN thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ được giao và luôn đáp ứng cho những yêu cầu của Quốc hội và ngược lại Quốc hội sử dụng một cách có hiệu quả nhất kết quả từ hoạt động của KTNN cần tăng cường hơn nữa mối quan hệ giữa Quốc hội với KTNN, cụ thể là:
Đối với Quốc hội và các ủy ban của Quốc hội. Hàng năm UBTCNS, Ủy ban Kinh tế của Quốc hội và KTNN cùng phối hợp xây dựng và thống nhất kế hoạch hoạt động phối hợp, trong đó xác định chi tiết tất cả các nội dung sẽ cùng làm việc, những vấn đề các Ủy ban đặt ra với KTNN làm cơ sở để KTNN đưa vào kế hoạch năm của mình đảm bảo cho việc phối hợp một cách đầy đủ và chặt chẽ. Cuối năm tổ chức tiến hành đánh giá kết quả hoạt động phối hợp trong năm, rút kinh nghiệm cho hoạt động của năm tiếp theo; định hướng các hoạt động cần phối hợp để tổ chức nghiên cứu bổ sung đáp ứng cho các yêu cầu mới đặt ra.
UBTCNS, Ủy ban Kinh tế của Quốc hội mời KTNN tham gia đầy đủ các hoạt động giám sát của mình theo kế hoạch đã được xác định trước, theo đó các ủy ban cần thông báo kịp thời thời gian thực hiện, đặt ra những yêu cầu cụ thể, cung cấp trước tài liệu để KTNN có thời gian chuẩn bị nhân sự tham gia, có thời gian nghiên cứu tài liệu, tham gia thảo luận và có ý kiến sâu sắc hơn nhằm nâng cao chất lượng công tác giám sát. Đồng thời tăng cường nội dung giám sát việc thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán của đơn vị được kiểm toán.
Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các ủy ban của Quốc hội cần sử dụng một cách triệt để các thông tin, kết quả do KTNN cung cấp để nâng cao tính hiệu lực, hiệu quả hoạt động của KTNN.
UBTCNS của Quốc hội tạo điều kiện thuận lợi cho KTNN tham gia tất cả các buổi làm việc của Ủy ban với các đơn vị có liên quan về dự toán NSNN và thẩm tra dự toán NSNN, gửi dự thảo báo cáo thẩm tra dự toán, quyết toán NSNN trình Quốc hội cho KTNN để KTNN đối chiếu với những nhận xét, đánh giá và số liệu dự toán, quyết toán NSNN trong các báo cáo, thông tin do KTNN cung cấp.
UBTCNS, Ủy ban Kinh tế của Quốc hội gửi cho KTNN dự thảo các báo cáo thẩm tra, giám sát mà KTNN đã tham gia làm cơ sở cho việc đối chiếu với những ý kiến tham gia, những thông tin mà KTNN đã cung cấp.
Công tác chuẩn bị tài liệu cho các phiên họp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, UBTCNS cần được tổ chức hợp lý, đảm bảo các tài liệu có liên quan được cung cấp kịp thời để nâng cao chất lượng các ý kiến tham gia, thảo luận.
Quan tâm đến công tác đánh giá việc thực hiện Luật KTNN nhằm có định hướng sửa đổi, bổ sung Luật cho phù hợp với thực tế.
Đối với cơ quan KTNN cần đưa vào kế hoạch hoạt động năm của ngành những công tác phối hợp đã thống nhất với các ủy ban của Quốc hội, trên cơ sở đó chuẩn bị đầy đủ các điều kiện cho hoạt động phối hợp, ngoài ra, KTNN luôn có lực lượng dự phòng có thể đảm nhận những nhiệm vụ đột xuất mà Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội yêu cầu. Thực hiện đầy đủ, thường xuyên các quy định trong Quy chế phối hợp công tác đã được ký kết và các nội dung đã xây dựng trong kế hoạch hoạt động hàng năm. Trong quá trình hoạt động, tiếp tục nghiên cứu xây dựng và đề xuất ký quy chế phối hợp với các ủy ban khác của Quốc hội nếu xét thấy cần thiết; thường xuyên nghiên cứu đề xuất bổ sung các nội dung phối hợp mới để thích ứng với yêu cầu tình hình mới. Tổ chức nghiên cứu xây dựng quy trình và sớm đưa hoạt động kiểm toán dự toán NSNN vào hoạt động của mình để thực hiện đúng luật định và tăng cường vai trò của KTNN trong việc cung cấp thông tin và đưa ra ý kiến của KTNN về dự toán NSNN làm cơ sở cho Quốc hội quyết định dự toán NSNN và phân bổ dự toán NSNN hàng năm. Chủ động phối hợp với các ủy ban của Quốc hội trong việc sơ kết, tổng kết đánh giá thực hiện Luật KTNN để đề xuất sửa đổi, bổ sung phù hợp với hoạt động thực tiễn của cơ quan KTNN./.