Thứ sáu, 19/9/2025

Điện thoại (024) 6287 3463

Đường dây nóng (024) 6287 3463

Liên hệ quảng cáo (+84)915.632.345

Thứ sáu, 19/9/2025
Share on Facebook
Copy to Clipboard

PHÂN TÍCH VÀ KIỂM SOÁT RỦI RO DO BIẾN ĐỘNG LAO ĐỘNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP MAY MẶC VIỆT NAM

Với hình thức sản xuất chủ yếu là gia công theo đơn đặt hàng của khách hàng, nhân lực được coi là yếu tố đầu vào quan trọng nhất trong các doanh nghiệp may mặc Việt Nam hiện nay. Những doanh nghiệp này sử dụng một số lượng lớn lao động, chủ yếu là lao động nữ.

 

Tuy nhiên, vài năm trở lại đây, toàn ngành đang phải đối mặt với rủi ro do biến động lao động với tỷ lệ cao (đặc biệt là do lao động tự ý bỏ việc hoặc nghỉ việc). Rủi ro này gây ra những tổn thất đáng kể đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và hơn thế nữa, nó làm giảm đi đáng kể năng lực cạnh tranh của ngành may mặc Việt Nam so với các đối thủ cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Vì vậy, các nhà quản lý trong doanh nghiệp may mặc Việt nam cần phải chủ động trong việc nhận diện, phân tích, đánh giá, từ đó đưa ra những giải pháp để kiểm soát có hiệu quả loại rủi ro này.

                Khi đề cập đến rủi ro, người ta thường quan niệm đó là những sự kiện không mong muốn có thể xảy ra ảnh hưởng theo hướng tiêu cực đến các những chủ thể phải đón nhận những sự kiện đó. Rủi ro thường không thể xác định một cách chắc chắn và kéo theo nó là những tổn thất về con người hoặc của cải.

                Trong quản lý doanh nghiệp, khi nhà quản lý đặt ra các mục tiêu cho các hoạt động mà doanh nghiệp cần phải đạt được thì rủi ro mà các nhà quản lý thường phải đối mặt đó là khả năng tồn tại các sai lệch bất lợi so giữa thực tế so với kết quả hay dự tính được mong chờ[1]. Theo đó, nguyên nhân gây ra sự sai lệch là khách quan còn dự tính của con người là chủ quan và khác nhau trong từng tình huống cụ thể. Rủi ro được phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau, tuỳ thuộc vào tính chất, phạm vi ảnh hưởng của rủi ro, theo nguyên nhân của rủi ro có thể là khách quan hoặc chủ quan hoặc theo từng tác nhân cụ thể gây ra rủi ro cho doanh nghiệp. Các chi phí phát sinh do rủi ro xuất hiện bao gồm cả những chi phí trực tiếp và gián tiếp, thể hiện toàn bộ những thiệt hại, mất mát về vật chất và tinh thần trong việc gánh chịu, khắc phục, bồi thường tổn thất, kể cả phòng ngừa và hạn chế rủi ro. Nhìn chung trong kinh doanh, kể cả trong ngắn hạn và dài hạn, rủi ro là căn nguyên gây ra sự giảm sút lợi nhuận của doanh nghiệp khi nó không được quan tâm và xử lý đúng đắn. Để đảm bảo đạt được các mục tiêu đặt ra, nhà quản lý cần phải nhận diện, phân tích và đánh giá rủi ro, từ đó lựa chọn, ra quyết định cách thức và biện pháp để kiểm soát rủi ro ở mức độ có thể chấp nhận được.

                Như các doanh nghiệp thông thường, doanh nghiệp may mặc Việt Nam cũng phải đối mặt với nhiều loại rủi ro trong các hoạt động của mình. Chẳng hạn, đối với hoạt động sản xuất, rủi ro là giao hàng không đúng kế hoạch theo hợp đồng đã ký kết, hoặc chất lượng sản phẩm không đáp ứng được yêu cầu của khách hàng dẫn đến việc phải bồi thường thiệt hại cho khách hàng. Trong thanh toán, rủi ro xuất hiện khi doanh nghiệp lựa chọn đối tác ký kết hợp đồng không có tư cách pháp nhân đảm bảo dẫn đến hậu quả khách hàng không thanh toán khi hàng đã được giao. Đối với hoạt động quản lý và sử dụng nhân lực, rủi ro mà doanh nghiệp may mặc Việt Nam phải đối mặt đó là tỷ lệ lao động tự ý bỏ việc, nghỉ việc cao làm biến động đáng kể trong lực lượng lao động, gây ra nhiều khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh.

                Một trong những đặc điểm điển hình của các doanh nghiệp May mặc là nhu cầu sử dụng nhiều lao động với tỷ lệ lao động nữ thường chiếm hơn 80% so với tổng số lao động trong doanh nghiệp. Tính chất công việc được chuyên môn hoá lặp đi lặp lại trong các dây chuyền may sản xuất sản phẩm không đòi hỏi người lao động có trình độ văn hóa cao, thông thường chỉ cần lao động tốt nghiệp phổ thông, đã trải qua khoá đào tạo nghề trong thời gian ngắn, hoàn thiện được một vài công đoạn tạo ra sản phẩm là có thể được tuyển dụng và bố trí làm việc ngay trong các doanh nghiệp may mặc. Những đặc điểm này thường làm cho mọi người nhầm tưởng rằng việc tuyển dụng cũng như quản lý và sử dụng lao động tại các doanh nghiệp may mặc là đơn giản bởi số lượng lao động dồi dào, không có đòi hỏi cao về chất lượng lao động, tuy nhiên, thực tế cho thấy sự thật khác hẳn. Khi mức sống và trình độ dân trí của người dân tăng lên, lợi thế so sánh của nền kinh tế Việt Nam không còn là lao động với giá nhân công rẻ nữa và điều này có tác động trực tiếp tới ngành may mặc nói riêng và các ngành khác sử dụng nhiều lao động nói chung. Hiện nay toàn ngành đang phải đối mặt với tình trạng biến động lao động với tỷ lệ biến động lao động hàng năm trong các doanh nghiệp may mặc khoảng 25 - 30%, thậm chí, trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, tỷ lệ này lên tới 40%[2]. Thực tế này cần phải được nhìn nhận là vấn đề nan giải nhất đối với các doanh nghiệp may mặc trong hiện tại và tương lai, đòi hỏi các doanh nghiệp cần phải có cơ chế thích hợp nhìn nhận đúng đắn rủi ro về biến động lao động, khả năng và thời điểm phát sinh, xác định được những ảnh hưởng có thể có của loại rủi ro này đối với hoạt động sản xuất kinh doanh, lý giải những nguyên nhân thỏa đáng cho tình trạng biến động lao động, từ đó có những biện pháp thích hợp nhằm hạn chế thấp nhất những ảnh hưởng của nó đối với việc đạt được mục tiêu mà doanh nghiệp đang nỗ lực phấn đấu.

                Qua khảo sát cho thấy, hầu hết các doanh nghiệp may mặc đều nhìn nhận rằng, tay nghề lao động kém, khó tuyển dụng lao động mới và nhất là lượng lao động hiện tại của doanh nghiệp luôn biến động với tỷ lệ cao là những khó khăn rất lớn cản trở đến hoạt động sản xuất kinh doanh. Biến động lao động với tỷ lệ cao cần được nhìn nhận là rủi ro nghiêm trọng trong doanh nghiệp may mặc, đặc biệt trong vài năm trở lại đây, tỷ lệ này thay đổi với xu hướng ngày càng tăng lên. Sự nghiêm trọng của rủi ro này không chỉ thể hiện ở tần suất xuất hiện mà còn ở những tổn thất phát sinh, đe doạ trực tiếp đến kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Những tổn thất này bao gồm cả trực tiếp và gián tiếp, tổn thất hữu hình và vô hình, phát sinh trong cả ngắn hạn và dài hạn.

                Trước hết, đó là những khoản tổn thất từ các chi phí đã, đang và sẽ phát sinh liên quan đến người lao động. Những chi phí này bao gồm:

                Chi phí đã chi ra cho người lao động rời bỏ khỏi công ty: Những chi phí này liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến người lao động đã nghỉ hoặc bỏ việc từ khi họ được tuyển mộ, tuyển dụng vào làm việc tại doanh nghiệp, các chi phí đã chi ra để đào tạo họ thích ứng với công việc, các chi phí về các khoản trích theo lương đóng góp theo quy định của pháp luật cho người lao động… Trong một số trường hợp, người lao động ra khỏi doanh nghiệp còn mang theo cả những hiểu biết, kỹ năng, thậm chí là các bí mật nghề nghiệp mà họ tích luỹ được trong thời gian làm việc, hay là tổn thất do doanh nghiệp mất đi khách hàng có liên hệ thân thiết với người lao động.

                Chi phí cho người lao động khác để thay thế cho người đã bỏ việc: các chi phí này cũng bao gồm nhiều loại, phát sinh trong cả quá trình từ khi tuyển mộ, tuyển dụng đến đào tạo người lao động mới thay thế cho lao động đã nghỉ hoặc bỏ việc. Trong trường hợp doanh nghiệp không hoặc chưa thể tuyển dụng lao động mới, thì các tổn thất mà doanh nghiệp phải gánh chịu đó là chi phí công việc bị gián đoạn khi chưa tìm được người khác thay thế, hoặc chi phí chi ra để thuê lao động tạm thời.

                Các tổn thất do giảm năng suất và sản lượng: Khi có lao động, đặc biệt là các lao động có trình độ chuyên môn tốt và kinh nghiệm nghề nghiệp vững bỏ việc, thì những tổn thất này là tương đối đáng kể. Đặc điểm tổ chức sản xuất trong các doanh nghiệp may mặc thường là theo phân xưởng, trong từng phân xưởng lại có nhiều tổ đội hoặc chuyền sản xuất. Những tổ, đội hoặc chuyền sản xuất này thường có khoản 20 - 30 công nhân, trong một số doanh nghiệp, số công nhân trong một tổ có thể lên đến 60 - 70 người. Những lao động này đều được phân công công việc rõ ràng theo một quy trình khép kín và chuyên môn hoá để tạo nên các sản phẩm may mặc một cách tuần tự, vì vậy, nếu khuyết thiếu đi một hoặc một vài công nhân thực hiện các công đoạn (đặc biệt là các công đoạn may phức tạp) thì năng suất và sản lượng của toàn bộ tổ hoặc chuyền may sẽ bị sút giảm đáng kể. Với những lao động mới (được tuyển mới hoặc thuê tạm thời) chưa thành thạo công việc, năng suất lao động thường thấp sẽ kéo theo sự sút giảm năng suất của các lao động khác bởi công việc của toàn bộ chuyền sản xuất không được vận hành trôi chảy.

                Tổn thất do chất lượng sản phẩm sản xuất không đạt yêu cầu: Tổn thất này thường phát sinh khi các lao động thay thế cho lao động bỏ việc chưa thành thạo về kỹ năng thực hiện công việc, vì vậy tỷ lệ sản phẩm sai hỏng có thể tăng lên, đồng thời kéo theo các chi phí phát sinh để sửa chữa sản phẩm hỏng, hoặc thiệt hại do sản phẩm hỏng không thể sửa chữa được. Sản phẩm hỏng hoặc không đạt yêu cầu cũng là tác nhân kéo theo sự sụt giảm đáng kể về năng suất và sản lượng như đã trình bày ở trên.

                Tổn thất về doanh thu: Khi lao động bỏ việc quá nhiều khiến cho doanh nghiệp không thể ứng phó kịp dẫn đến hoạt động sản xuất bị gián đoạn. Kế hoạch giao hàng đã ký kết trong hợp đồng với khách hàng khó có khả năng thực hiện đúng hạn và theo đúng yêu cầu về chất lượng đã cam kết với khách hành. Nếu kế hoạch sản xuất không thực hiện được, doanh nghiệp thường phải gánh chịu những thiệt hại do vi phạm hợp đồng, hoặc chi phí vận chuyển tăng đáng kể do phải chi trả chi phí vận chuyển, đặc biệt không đơn thuần chỉ là vận chuyển bằng đường biển thông thường, mà bằng đường hàng không để kịp thời gian giao hàng cho khách. Trong trường hợp này, đơn hàng thường có kết quả lỗ bởi chi phí vận chuyển quá cao. Do không giữ được chữ tín trong kinh doanh, nguy cơ mất khách hàng và phải tìm kiếm khách hàng khác là điều khó tránh khỏi.

                Chi phí sắp xếp, tổ chức lại sản xuất: Khi lao động tự động bỏ việc, doanh nghiệp thường rơi vào trạng thái bị động bởi mọi việc xảy ra không theo dự kiến hoặc kế hoạch đã lập trước đó. Thay vì tìm kiếm khách hàng, nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành,… để đạt được mục tiêu lợi nhuận thì doanh nghiệp giờ đây phải quan tâm đến biến cố trước mắt trong chính nội bộ: đó là lực lượng nhân sự không ổn định để tiếp tục chiến lược kinh doanh. Có những doanh nghiệp do số lượng lao động bỏ việc quá lớn có thể khiến cho một số chuyền hoặc tổ may phải xoá sổ, để từ đó sắp xếp lại những tổ hoặc chuyền mới từ những lao động còn lại khiến cho mọi việc liên quan đến nhân sự của doanh nghiệp dường như lại bắt đầu lại từ đầu. Thiếu nhân sự khiến doanh nghiệp không thể chủ động xây dựng các kế hoạch sản xuất dài hơi, khó khăn trong việc cân đối giữa nguồn lực hiện tại với khả năng đáp ứng nhu cầu của khách hàng.

                Trên đây mới chỉ là những tổn thất hữu hình mà doanh nghiệp có thể tính toán được, ngoài ra còn có những ảnh hưởng vô hình mà doanh nghiệp khó có thể đánh giá kể cả trong ngắn hạn và dài hạn. Chẳng hạn, khi lao động bỏ việc sẽ ảnh hưởng xấu đến tâm lý của những lao động còn ở lại doanh nghiệp, khiến cho họ không vững tâm làm việc. Uy tín của doanh nghiệp bị sút giảm không chỉ với các doanh nghiệp trong cùng ngành mà còn với các khách hàng, và rộng hơn nữa, khả năng cạnh tranh của toàn ngành may mặc Việt Nam so với các đối thủ như Trung Quốc, Srilanka, Ấn Độ,.. sẽ bị ảnh hưởng đáng kể.

                Việc phân tích những tổn thất do tình trạng biến động lao động đang xảy ra với các doanh nghiệp may mặc Việt Nam cho thấy, cần phải nhận diện rõ nguyên nhân lý giải tại sao người lao động trong các doanh nghiệp này lại bỏ việc nhiều đến vậy, từ đó làm cơ sở để xác định các biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn hoặc giảm thiểu những tổn thất từ rủi ro này. Trên thực tế, các nguyên nhân tương đối nhiều, chúng bao gồm những loại sau:

                Nguyên nhân xuất phát từ đặc điểm nguồn nhân lực trong doanh nghiệp may mặc Việt Nam chủ yếu là nữ giới: Với tỷ lệ lao động nữ trong doanh nghiệp may mặc thường hơn 80%, biến động lao động tất yếu xảy ra bởi người phụ nữ ngoài công việc xã hội còn đảm phải nhận thiên chức làm mẹ. Trong tất cả các doanh nghiệp may mặc lúc nào cũng có một số lượng nhất định lao động nữ nghỉ việc vì lý do thai sản, tuy nhiên, đây là lý do khách quan và nhà quản lý có khá đầy đủ thông tin do người lao động phải báo trước về thời gian nghỉ việc với doanh nghiệp. Với nguyên nhân này, cách thức kiểm soát phù hợp đó là nhà quản lý cần dự tính trước tỷ lệ số lao động nghỉ việc đương nhiên vì lý do thai sản, từ đó chủ động lên kế hoạch và tổ chức sản xuất. Công thức sử dụng để tính tỷ suất biến động lao động trong doanh nghiệp như sau:

                Tỷ suất biến động lao động = x 100%

                Trong đó:             

                R: là tổng số lao động nghỉ việc

                U: là số lượng lao động nghỉ việc không thể tránh khỏi (vì lý do thai sản, ốm,..)

                W: là tổng số lao động bình quân của doanh nghiệp

                Tỷ suất này thường được tính cho một năm, một quý hoặc một tháng, đặc biệt có sự quan tâm đến sự biến động theo mùa vụ hoặc những trường hợp đột biến. Tuy nhiên tỷ suất này chưa thể hiện rõ mức độ ổn định của lực lượng lao động, vì vậy cần sử dụng thêm tỷ suất sau:

Mức ổn định của lao động =              Tỷ suất này càng cao chứng tỏ lực lượng lao động của doanh nghiệp càng ổn định. Tử số của tỷ suất này có thể được thay bằng tổng số lao động bình quân có thời gian làm việc trên một khoảng thời gian nhất định nào đó theo ý muốn đánh giá của doanh nghiệp.

                Nguyên nhân xảy ra rủi ro về biến động lao động trong các doanh nghiệp may mặc thường phụ thuộc vào nhiều yếu tố chi phối bởi đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh của ngành. Với hầu hết các doanh nghiệp may mặc tại miền Nam có sử dụng nhiều lao động từ ngoài Bắc vào, hoặc các doanh nghiệp may mặc ở các thành phố lớn, thời điểm biến động lao động với tỷ lệ cao nhất thường xảy ra vào khoảng trước và sau Tết nguyên đán hàng năm. Đó là lúc các công nhân về nghỉ Tết ở quê nhà sau một thời gian dài làm ăn sinh sống xa nhà, sau kỳ nghỉ Tết, tâm lý phải tự mình vượt cả quãng đường dài để tiếp tục làm việc nơi đất khách quê người làm cho họ nản lòng, khiến họ sẵn sàng từ bỏ công việc quen thuộc tại doanh nghiệp. Để đối phó với tình trạng này, có một số các doanh nghiệp may mặc đã chủ động lên kế hoạch và tự trang trải chi phí đưa công nhân về quê ăn Tết, sau đó lại đón họ tiếp tục làm việc trở lại. Mặc dù tốn kém, tuy nhiên biện pháp này vẫn có thể có hiệu quả nếu doanh nghiệp cân nhắc được mối quan hệ giữa chi phí bỏ ra và ích lợi mang lại do lực lượng lao động ổn định được cả về số lượng và chất lượng, để doanh nghiệp có thể tiếp tục hoàn thành các đơn đặt hàng đã ký và chủ động trong thực hiện kế hoạch sản xuất.

                Thời điểm biến động lao động cũng có thể xảy ra nhiều đặc biệt đối với các doanh nghiệp may mặc có địa bàn hoạt động sản xuất kinh doanh ở các vùng nông thôn và miền núi. Do tận dụng nguồn lao động địa phương xuất thân trong các gia đình làm nghề nông nên khi gặp mùa vụ (mùa cấy và thu hoạch nông sản), những lao động này sẵn sàng nghỉ việc tại doanh nghiệp để phụ giúp cùng gia đình công việc đồng áng. Những khoảng thời gian này có thể kéo dài từ vài ngày đến một vài tuần khiến cho chủ doanh nghiệp đau đầu tìm cách khắc phục. Trong trường hợp này, biện pháp tỏ ra thích hợp là doanh nghiệp cần phải kết hợp linh hoạt kỷ luật lao động giữa cơ chế thưởng và phạt công nhân. Chẳng hạn, tăng đơn giá tiền lương trên sản phẩm luỹ tiến trong giai đoạn mùa vụ đối với công nhân để họ so sánh và đưa ra quyết định nên làm việc tại doanh nghiệp bởi thu nhập cao hơn hẳn so với công việc đồng áng. Doanh nghiệp có thể áp dụng biện pháp khoán về số lượng và chất lượng sản phẩm, đồng thời đưa ra thời gian làm việc linh hoạt để nếu công nhân hoàn thành công việc khoán tại doanh nghiệp sớm trước thời hạn, họ có thể về làm công việc tại gia đình. Dĩ nhiên, vào những khoảng thời gian này, doanh nghiệp phải sẵn sàng chấp nhận những thiệt hại do sản lượng hoặc năng suất lao động thấp hơn bình thường, nhưng đánh đổi lại, lao động sẽ không nghỉ việc hàng loạt, thậm chí bỏ hẳn việc nếu chính sách về lao động và tiền lương của doanh nghiệp quá cứng nhắc.

                Một trong những nguyên nhân lớn dẫn đến lao động trong ngành không mặn mà với công việc đó là tình trạng làm thêm giờ trong các doanh nghiệp may mặc Việt Nam hiện nay quá nhiều. Ngành dệt may cùng với da giầy và chế biến thuỷ sản là ba ngành đang được áp dụng quy định riêng của Bộ Luật Lao động: trong một số trường hợp đặc biệt giải quyết công việc cấp bách, thời gian làm thêm giờ trong một năm không quá 300 giờ, trong khi đó, ở các ngành khác, tổng thời gian làm thêm giờ không được vượt quá 200 giờ một năm. Nhiều nhà quản lý trong các doanh nghiệp may mặc Việt Nam thừa nhận thực tế là, hầu hết các doanh nghiệp may thời gian qua đều làm vượt thời gian làm thêm từ 1,5 đến 2 lần bởi đặc thù ngành chủ yếu là may gia công phụ thuộc vào hợp đồng của nước ngoài, chất lượng lao động thấp, vừa làm việc, vừa phải học việc,…Gần đây, trong văn bản đóng góp ý kiến đối với Dự thảo Bộ Luật Lao động, đại diện ngành dệt may đồng ý với thời gian làm thêm tối đa không vượt quá 50% số giờ làm việc chính thức trong một ngày và không quá 20 giờ trong một tuần. Tuy nhiên đại diện ngành cho rằng không cần khống chế tổng số giờ làm thêm trong một năm (không quá 300 giờ). Điều này chứng tỏ, thời gian làm thêm giờ quá nhiều trong các doanh nghiệp may mặc trước mắt chưa có khả năng khắc phục mà mới chỉ hạn chế được phần nào. Tuy nhiên, thời gian làm thêm giờ quá nhiều, cường độ làm việc quá căng thẳng, khiến cho người lao động cảm thấy mệt mỏi, không thể tiếp tục công việc thêm được nữa cũng là một trong những nguyên nhân chính làm cho người lao động không gắn bó với nghề, gây ra tình trạng biến động lao động. Trước thực tế này, để có nguồn lao động ổn định và tận tâm với nghề, các doanh nghiệp may mặc cần phải có những biện pháp mạnh mẽ và hợp lý đối với tình trạng làm thêm giờ quá nhiều. Chẳng hạn, việc thực hiện theo đúng quy định về thời gian làm thêm giờ trong doanh nghiệp cần tuân thủ theo quy định của Luật Lao động. Làm như vậy tưởng rằng doanh nghiệp sẽ bị thiệt nhiều hơn là có lợi, tuy nhiên, nếu phân tích kỹ lưỡng, có thể thấy rằng, cách thức này sẽ mang lại lợi ích nhiều hơn cho doanh nghiệp và hơn nữa là lợi ích lâu dài cho toàn ngành may mặc.

                Trước hết, kéo dài thời gian làm thêm giờ không phải là biện pháp hữu ích để tăng sản lượng và năng suất lao động. Các nghiên cứu cho thấy, nếu làm việc 9 giờ/ngày thì năng suất lao động ở giờ thứ 9 sẽ giảm 5% so với năng suất lao động ở giờ thứ 8. Làm việc ở giờ thứ 11 thì năng suất sẽ giảm đi 20% và đến giờ thứ 13 thì năng suất giảm tới 40%[3]. Nếu doanh nghiệp trả lương cho người lao động theo đúng quy định là 150% so với đơn giá tiền lương thông thường đối với giờ làm thêm và chi phí tăng thêm do bổ sung thêm một bữa ăn cho người lao động (khi tổng thời gian làm việc của người lao động trên 10 giờ một ngày) thì có thể thấy rằng, chưa hẳn đã là hiệu quả nếu kéo dài thời gian làm việc, quan trọng hơn, sẽ ảnh hưởng đến khả năng tái tạo sức lao động của người lao động bởi thời gian nghỉ ngơi của họ trong ngày là quá ít. Các nhà quản lý trong các doanh nghiệp may mặc thường biện minh vì áp lực về tiến độ và kế hoạch giao hàng từ phía khách hàng buộc doanh nghiệp phải yêu cầu người lao động làm thêm giờ, tuy nhiên, doanh nghiệp vẫn có thể dung hoà được lợi ích của cả doanh nghiệp, khách hàng và người lao động bằng cách thức hữu hiệu hơn. Chẳng hạn, hạn chế số giờ làm thêm trong ngày bằng cách tăng năng suất của người lao động trong thời gian làm việc chính thức thông qua việc kiểm soát chặt chẽ hơn từng công đoạn may, giảm thiểu thời gian lãng phí không cần thiết của người lao động và các hoạt động hỗ trợ cho sản xuất (ví dụ như cung cấp nguyên liệu đảm bảo chất lượng và kịp thời, bố trí chuyền may hợp lý để công nhân không phải chờ nhau trong quá trình làm việc, hạn chế tỷ lệ sai hỏng để không phải tái chế hàng) kết hợp với chính sách lương thưởng hợp lý (áp dụng trả lương theo sản phẩm luỹ tiến để khuyến khích công nhân tăng năng suất trên cơ sở đảm bảo chất lượng của sản phẩm, đồng thời có biện pháp nghiêm khắc với công nhân có năng suất lao động thấp, chất lượng sản phẩm không đạt yêu cầu). Việc lập kế hoạch sản xuất cũng phải đảm bảo tính chặt chẽ và hiệu quả, hạn chế tối thiểu thời gian doanh nghiệp ngừng sản xuất khi có sự gián đoạn của bất kỳ một công đoạn nào trong quy trình từ cung ứng cho đến sản xuất sản phẩm. Bằng cách tăng năng suất lao động trong giờ làm việc chính thức doanh nghiệp vẫn có thể đảm bảo được sản lượng sản xuất theo tiến độ và kế hoạch sản xuất theo đơn hàng đã ký kết mà không phải yêu cầu người lao động làm thêm giờ nhiều. Mặt khác, hạn chế được tâm lý của một số lao động cho rằng, do ngày nào cũng phải làm thêm giờ, vì vậy, với thời gian 8 tiếng làm việc chính thức, họ chỉ cần làm việc ở mức độ vừa phải, và với số giờ làm thêm, họ có lợi bởi đơn giá tiền lương tăng gấp rưỡi so với đơn giá tiền lương thông thường. Đây chính là lý do giải thích rằng, cho dù làm thêm giờ, sản lượng và năng suất lao động trong doanh nghiệp không thể tăng được như nhà quản lý mong muốn.

                Một trong những nguyên nhân lớn nhất dẫn đến tình trạng biến động lao động trong các doanh nghiệp may mặc đó là vấn đề kinh tế: thu nhập của người lao động trong các doanh nghiệp này quá thấp so với các ngành nghề khác trong xã hội. Mức thu nhập bình quân của một người lao động trong các doanh nghiệp May mặc theo tháng của các năm 2005, 2006, 2007 lần lượt là 1208; 1436; 1627[4] nghìn đồng, thấp hơn mức lương bình quân của toàn ngành công nghiệp chế biến. Đáng chú ý là, ngành Dệt May cùng với ngành khai thác dầu thô và khí tự nhiên trong những năm gần đây đều được coi là những ngành mang lại ngoại tệ xuất khẩu lớn nhất cho đất nước, nhưng mức lương bình quân theo người theo tháng của ngành khai thác dầu thô và khí tự nhiên gấp gần 10 lần so với chỉ tiêu này tại các ngành Dệt và May. Mức thu nhập thấp, thời gian làm thêm giờ quá nhiều,.. là những nguyên nhân kết hợp với nhau tạo ra tình trạng tranh chấp lao động trong ngành. Thống kê của Hiệp hội Dệt May Việt Nam cho thấy, số lượng các cuộc đình công trong ngành năm 2006, 2007, và 2008 lần lượt là 387; 541; 773 cuộc[5]. Có thể thấy rằng số lượng các cuộc đình công tăng với tốc độ chóng mặt, ảnh hưởng xấu đến hoạt động sản xuất kinh doanh, môi trường đầu tư, sức cạnh tranh,… của ngành. Chính vì vậy, Dệt và May là ngành tiên phong ký thoả ước lao động tập thể cấp ngành nhằm xây dựng mối quan hệ hài hoà, hạn chế những tranh chấp lao động đáng tiếc có thể xảy ra. Thoả ước lao động tập thể ngành được xây dựng trên cơ sở thoả thuận giữa người sử dụng lao động và người lao động thông qua các nghĩa vụ và quyền lợi cụ thể và được ký thí điểm bởi 69 doanh nghiệp trong toàn ngành. Một trong những nội dung quan trọng nhất trong Thoả ước này là sự đảm bảo “cơ chế lương” thích đáng hơn cho sức lao động được bỏ ra bởi người lao động. Nếu người lao động làm việc đủ 12 tháng và đảm bảo định mức lao động thì người sử dụng lao động phải có trách nhiệm bảo đảm thu nhập bình quân năm (bao gồm tiền lương, phụ cấp lương, tiền thưởng, không kể ăn ca và các khoản nộp bảo hiểm) tương ứng với các vùng được Nhà nước quy định về mức lương tối thiểu vùng. Đối với người lao động, những điều khoản trong thoả ước này khiến cho họ vui mừng vì quyền lợi của họ đã được đảm bảo hơn. Đối với giới chủ, chi phí chắc chắn sẽ tăng lên nhưng lại thu được hiệu quả lớn hơn - chính là sự ổn định của nguồn lao động, đồng thời là sự ổn định của doanh nghiệp. Việc ký Thoả ước là thí điểm, nhưng rất quan trọng, bởi nếu làm tốt sẽ thu hút nhiều doanh nghiệp tham gia ký Thoả ước lao động tập thể. Tuy nhiên, vấn đề tiếp theo đó là hậu thí điểm. Một mình Thoả ước là chưa đủ nếu ý thức của người lao động và giới chủ chưa cao và tổ chức công đoàn chưa đủ mạnh. Hơn nữa, theo thời gian, khi mọi yếu tố liên quan đến môi trường bên trong và bên ngoài doanh nghiệp thay đổi mà Thoả ước này không có sự sửa đổi, cập nhật cho phù hợp thì việc thực hiện Thoả ước này không những không mang lại hiệu quả mà thậm chí còn phản tác dụng. Chẳng hạn, một trong những nội dung cần phải quan tâm sửa đổi nhất đó là mức lương cam kết giữa doanh nghiệp và người lao động. Khi kết quả hoạt động của doanh nghiệp tốt hơn, hoặc các yếu tố bên ngoài như lạm phát, hoặc Chính phủ điều chỉnh mức lương tối thiểu thì mức lương trong Thoả ước này cần phải được sửa đổi theo. Như vậy, điều quan trọng nhất đó là nhà quản lý cần phải hài hoà và thống nhất lợi ích của doanh nghiệp với quyền lợi chính đáng của người lao động cho phù hợp với điều kiện cụ thể của từng thời kỳ khác nhau.

                 Một trong những nguyên nhân gây ra tỷ lệ biến động lao động cao mà rất nhiều nhà quản lý đều đồng tình, đó là ý thức kỷ luật kém của người lao động. Là một ngành sản xuất công nghiệp mang lại nguồn thu ngoại tệ đáng kể cho đất nước, với số lượng lao động sử dụng trong toàn ngành tương đối lớn, nhưng ý thức nghề nghiệp của người lao động trong các doanh nghiệp may mặc Việt Nam chưa chuyên nghiệp. Hầu hết các nhà quản lý doanh nghiệp trong ngành thường lo ngại tâm lý “đứng núi này, trông núi nọ” của người lao động. Một số lượng không nhỏ lao động trong ngành cho rằng, nghề may chỉ là tạm thời và họ có thể tìm được một công việc khác tốt hơn trong tương lai, hoặc thậm chí là tìm được một chỗ làm trong một doanh nghiệp khác cùng ngành mà “nghe nói” đem lại thu nhập cao hơn công việc hiện tại…. Những tâm lý này khiến cho họ không toàn tâm trong công việc, do vậy, chỉ cần có những chất xúc tác nhỏ như nhà quản lý yêu cầu đi làm thêm giờ, lương trả chậm trong vòng vài ngày, bị áp lực công việc từ phía các tổ trưởng hoặc quản đốc, … khiến họ nhấp nhổm bỏ doanh nghiệp đi tìm một công việc khác, tệ hơn, họ có thể nhóm họp lại với nhau để tổ chức đình công, bãi công gây ra những hậu quả không nhỏ đối với hoạt động của doanh nghiệp. Với thực tế này, nhà quản lý cần phải kiên trì thực hiện những biện pháp tuyên truyền, giáo dục ý thức kỷ luật của người lao động tốt hơn, đồng thời xây dựng và áp dụng các chính sách khen thưởng công bằng, kỷ luật nghiêm minh đối với người lao động trong doanh nghiệp. Việc xây dựng và duy trì hệ thống thông tin hiệu quả để có thể thu thập được nhanh chóng, chính xác, kịp thời những phản hồi từ phía người lao động là điều kiện tiên quyết để đảm bảo nhà quản lý có thể nắm vững và sâu sát hơn với tâm tư và nguyện vọng của người lao động nhằm kiểm soát tốt hơn rủi ro do biến động lao động xuất phát từ nguyên nhân này.

                Như vậy, biến động lao động do bỏ việc hoặc nghỉ việc tự ý của người lao động là loại rủi ro xảy ra với tần suất cao trong các doanh nghiệp may mặc Việt Nam, gây ra những tổn thất đáng kể không những đối với kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mà còn đối với toàn ngành may mặc Việt Nam. Để có thể ngăn ngừa và giảm thiểu tổn thất của những rủi ro này, nhà quản lý trong các doanh nghiệp may mặc Việt Nam cần thể hiện vai trò của mình trong việc ý thức được những ảnh hưởng đáng kể của rủi ro do biến động lao động đối với doanh nghiệp, từ đó phân tích rõ nguyên nhân gây ra tình trạng biến động lao động, và có những biện pháp kiểm soát thích hợp, đồng bộ với loại rủi ro này.

                Tài liệu tham khảo:

1. Dương Hữu Hạnh, Quản trị rủi ro xí nghiệp trong nền kinh tế toàn cầu, Nhà Xuất bản Tài chính, 2009

2. Phạm Bá Luân, VPC Việt Nam, Quản lý rủi ro - Công cụ quản lý hiệu quả,  Tạp chí Tiêu chuẩn đo lường Chất lượng số 6 tháng 3 năm 2010, trang 48

3. Nguyễn Thị Quy, PGS.TS (Chủ biên), Quản trị rủi ro trong doanh nghiệp, Nhà Xuất bản Văn hoá, 2007

4. Nguyễn Quang Thu, PGS.TS, Quản trị rủi ro và bảo hiểm trong doanh nghiệp, Nhà Xuất bản Thống kê, 2008

5. Trương Văn Cẩm, Chiến lược nhân sự của doanh nghiệp - Lý luận và thực tiễn, www.vinatex.com.vn, 12/8/2008, 09.43.00

6. Tiêu chuẩn quốc tế ISO 31000:2009 Quản lý rủi ro - Các nguyên tắc và hướng dẫn, www. iso. org

7. Tiêu chuẩn ISO Guide73:2009, Quản lý rủi ro - Vốn từ vựng, www. iso. org

8. Tổng cục Thống kê, Kết quả điều tra thực trạng các doanh nghiệp năm 2006, 2007, 2008.

9. Thoả ước lao động tập thể ngành dệt may: Hồi kết cho đình công tự phát, www.vinatex.com.vn, 11/5/2010, 14:40:28pm.

10. www.vietbao.vn

 


[1] Quản trị rủi ro trong doanh nghiệp, PGS.TS Nguyễn Thị Quy và cộng sự, Nhà Xuất bản Văn hoá - Thông tin, Hà Nội, 2008.

[2] Trương Văn Cẩm, Chiến lược nhân sự của doanh nghiệp - Lý luận và thực tiễn, www.vinatex.com.vn, 12/8/2008, 09.43.00

[3] http://vietbao.vn/index2.php?option=com_content&task=view&id=10784160&pop=1&page=0

[4] Tổng cục Thống kê, Kết quả điều tra thực trạng các doanh nghiệp năm 2006, 2007, 2008

[5] http://vinatex.com.vn, Thoả ước lao động tập thể ngành dệt may: Hồi kết cho đình công tự phát, 11/5/2010, 14:40:28pm.

Lượt xem: 1

Khái quát sự thay đổi của hệ thống tài khoản kế toán hành chính sự nghiệp ban hành theo Thông tư 24/2024/TT-BTC ngày 17/4/2024 với Thông tư 107/2017/TT-BTC ngày 10/10/2017

Ngày 17/4/2024 Bộ Tài chính ban hành hệ thống tài khoản kế toán hành chính sự nghiệp kèm theo Thông tư 24/2024/TT-BTC (sau đây gọi tắt là Thông tư 24). Thông tư 24 được ban hành nhằm thay thế 4 thông tư: Thông tư số 107/2017/TT-BTC hướng dẫn chế độ kế toán hành chính, sự nghiệp (sau đây gọi tắt là Thông tư 107); Thông tư số 108/2018/TT-BTC hướng dẫn kế toán dự trữ quốc gia; Thông tư số 79/2019/TT-BTC hướng dẫn chế độ kế toán áp dụng cho ban quản lý dự án sử dụng vốn đầu tư công và Thông tư số 76/2019/TT-BTC hướng dẫn kế toán tài sản kết cấu hạ tầng giao thông, thủy lợi. Bài viết tóm tắt khái quát sự thay đổi của Hệ thống tài khoản kế toán ban hành kèm theo Thông tư 24 so với Thông tư 107. Từ khoá: Thông tư 24/2024/ TT-BTC, Thông tư 107/2017/TT-BTC , Chế độ kế toán hành chính sự nghiệp… 1. Giới thiệu sơ lược Thông tư 24/2024/ TT-BTC hướng dẫn chế độ kế toán hành chính sự nghiệp   Thông tư 24  ban hành ngày 17/4/2024, bắt đầu áp dụng từ 01/01/2025 cho các đối tượng kế toán là cơ quan nhà nước (trừ uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn sử dụng ngân sách cấp xã) và các đơn vị sự nghiệp công lập (trừ một số đơn vị cụ thể); các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và tổ chức, cơ quan, đơn vị sử dụng ngân sách nhà nước hoặc thực hiện cơ chế tài chính của đơn vị sự nghiệp. Ngoài ra, Thông tư 24 cũng bổ sung đơn vị kế toán là các đơn vị hạch toán phụ thuộc và đầu mối chi tiêu. Về các quy định khái quát như sau: Về chứng từ kế toán: Thông tư 24 không quy định cụ thể mẫu chứng từ mà do đơn vị kế toán chủ động thiết kế theo quy định để phù hợp với yêu cầu quản lý và kế toán của đơn vị. Chứng từ thiết kế đảm bảo phản ánh đúng bản chất nghiệp vụ và đáp ứng các yêu cầu của Luật Kế toán. Thông tư cũng quy định về yêu cầu quản lý chặt chẽ, an toàn đối với các chứng từ kế toán in sẵn hoặc quy định riêng biệt tại các đơn vị kế toán sử dụng theo quy định riêng có liên quan. Về hệ thống tài khoản kế toán: Thông tư 24 ban hành Hệ thống tài khoản kế toán bao gồm các tài khoản trong bảng và các tài khoản ngoại bảng, quy định cụ thể nguyên tắc, nội dung hạch toán các tài khoản. Trường hợp cần bổ sung tài khoản ngang cấp với các tài khoản đã được quy định trong danh mục hệ thống tài khoản kế toán ban hành kèm theo Thông tư này đơn vị phải thực hiện theo quy định tại Luật Kế toán. Về sổ sách kế toán: Thông tư 24 quy định danh mục sổ kế toán, giải thích nội dung và phương pháp ghi sổ kế toán, tuy nhiên không yêu cầu đơn vị thực hiện mẫu biểu bắt buộc để các đơn vị chủ động thiết kế mẫu sổ phù hợp với yêu cầu quản lý. Đặc biệt, Thông tư nhấn mạnh quy định về giá ghi sổ đối với các trường hợp tài sản chưa xác định được giá chính thức là giá tạm tính và thực hiện điều chỉnh khi có giá chính thức. Về báo cáo kế toán: Thông tư 24 quy định 5 mẫu biểu quyết toán kinh phí hoạt động, quy định rõ nội dung mẫu biểu và việc lập các chỉ tiêu báo cáo trong từng mẫu biểu để đảm bảo đầy đủ thông tin, thống nhất việc lập báo cáo. Về báo cáo tài chính: Thông tư 24 quy định cụ thể về đối tượng, mục đích, nguyên tắc yêu cầu lập cũng như kì hạn và thời gian, phương thức cũng như cơ quan nộp đối với báo cáo tài chính và báo cáo quyết toán kinh phí. Thông tư chỉ quy định một mẫu biểu báo cáo lưu chuyển tiền tệ theo phương pháp trực tiếp và bổ sung thêm 2 mẫu biểu thuyết minh chi tiết số liệu tài sản kết cấu hạ tầng đơn vị được giao quản lý nhưng không trực tiếp khai thác, sử dụng (B04a/BCTC) và báo cáo về những thay đổi trong tài sản thuần (B05/BCTC). 2. Khái quát sự thay đổi của hệ thống tài khoản kế toán ban hành theo Thông tư 24 so sánh với hệ thống tài khoản kế toán ban hành kèm theo Thông tư 107 Hệ thống tài khoản ban hành kèm theo Thông tư 24, với 60 tài khoản cấp 1 trong bảng và 20 tài khoản cấp 1 ngoại bảng hệ thống tài khoản này có nhiều thay đổi so với hệ thống tài khoản kế toán ban hành theo Thông tư 107. Không chỉ thay đổi về mặt số lượng tài khoản, tên gọi và cách sắp xếp các tài khoản mà nội dung phản ánh của các tài khoản cũng có nhiều khác biệt, có khối lượng nhiều hơn, bao trùm nhưng cũng linh hoạt hơn để đáp ứng yêu cầu quản lý và tổ chức bộ máy kế toán tinh gọn, hiệu quả, cụ thể: Về tài khoản loại 1 Thông tư 24 có 18 tài khoản cấp 1 tăng 3 tài khoản cấp 1 so với Thông tư 107. Trong đó, bổ sung tài khoản 135 - Phải thu kinh phí được cấp, thay đổi tài khoản 137 - Tạm chi thành phải thu nhận ủy quyền, ủy thác chi trả, bổ sung thêm tài khoản 151 - Hàng mua đang đi đường và tài khoản 172 - Hàng dự trữ quốc gia. Sự thay đổi này nhằm mục đích phục vụ công tác kế toán các loại nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ hàng hóa của đơn vị đã mua, đã thuộc quyền quản lý của đơn vị nhưng đang trên đường vận chuyển hoặc đã về đến nhưng chưa kiểm nhận, nhập kho. Về tài khoản loại 2 Theo Thông tư 107, các tài khoản loại 2 được thiết kế để theo dõi và quản lý tài sản cố định của đơn vị và các tài sản dài hạn khác của đơn vị. Trong đó, tài sản cố định được thiết kế theo cách phân loại dựa trên hình thái biểu hiện và mục đích, tính chất sử dụng tương ứng các tài khoản 211 - Tài sản cố định hữu hình (có 7 tài khoản cấp 2 và 10 tài khoản cấp 3 được chi tiết theo mục đích, tính chất sử dụng); tài khoản 213 - Tài sản cố định vô hình và các tài khoản theo dõi khấu hao, tập hợp chi phí xây dựng cơ bản. Trong khi đó theo Thông tư 24, các tài khoản loại 2 nhằm theo dõi nhóm tài khoản tài sản cố định và nhóm tài sản dài hạn khác có cách tiếp cận tài sản cố định dựa trên cách phân loại theo quyền kiểm soát. Do đó, tài sản cố định dược hạch toán trên tài khoản loại 2 bao gồm tài sản cố định của đơn vị và tài sản kết cấu hạ tầng đơn vị trực tiếp khai thác sử dụng cùng với các tài khoản khấu hao, hao mòn, xây dựng cơ bản dở dang. Các tài khoản này đều chỉ mở cấp 2 chi tiết theo hình thái biểu hiện là tài sản cố định hữu hình hoặc tài sản cố định vô hình. Bên cạnh đó, nhóm tài khoản loại 2 của Thông tư 24 cũng bổ sung thêm tài khoản 229 dự phòng tổn thất tài sản và chi tiết cấp 2 cho các đối tượng  hàng tồn kho, khoản phải thu khó đòi và tổn thất đầu tư. Mặc dù số lượng tài khoản loại 2 tăng lên thành 8 tài khoản theo Thông tư 24, tăng lên 2 tài khoản so với Thông tư 107 nhưng có sự sắp xếp và đặt lại tên gọi phù hợp với nhu cầu theo dõi, quản lý và có tính tinh gọn hơn khi hướng tới các đối tượng sử dụng đa dạng và linh hoạt cho các đơn vị hơn. Về tài khoản loại 3 Thông tư 24 bỏ tài khoản 337 - Tạm thu và tài khoản 366 - Các khoản nhận trước chưa ghi thu, bổ sung thêm tài khoản 341 - Phải trả nợ vay và tài khoản 352 - Dự phòng phải trả, tài khoản 356 - Kinh phí điều hoà tập trung, 372 - Kinh phí dự trữ quốc gia. Đổi tài khoản 353 -  Các quỹ đặc thù thành tài khoản 353 - Các quỹ phải trả tương ứng sắp xếp và chi tiết các quỹ thuộc nhóm phải trả bằng 5 tài khoản cấp 2 và 2 tài khoản cấp 3. Sự thay đổi này nhằm phù hợp với những thay đổi về theo dõi, hạch toán và báo cáo các nguồn doanh thu, chi phí xác định kết quả của đơn vị ở các tài khoản loại 4 tới 9 và tích hợp các đối tượng áp dụng Thông tư 108, Thông tư 79 và Thông tư 76 nêu trên. Đặc biệt, việc chuyển đổi các khoản trước kia thuộc nhóm tài khoản quỹ vào nhóm nợ phải trả đã biểu hiện sự phân loại thống nhất và chính xác các khoản phải trả theo đúng định nghĩa là các nghĩa vụ hiện tại phát sinh từ các sự kiện mà việc thanh toán các nghĩa vụ này sẽ làm giảm các nguồn lực của đơn vị. Về tài khoản loại 4 Thông tư 24 tăng số lượng lên 5 tài khoản cấp 1 thay vì 4 tài khoản cấp 1 ban hành kèm theo Thông tư 107, đồng thời có sự  sắp xếp lại nội dung, thay đổi tên gọi cũng như giảm bớt các tài khoản cấp 2 của nhóm tài khoản này. Cụ thể, tài khoản 411 - Nguồn vốn kinh doanh chuyển sang thành 411 - Vốn góp, tài khoản 421 - Thặng dư (thâm hụt) lũy kế không quy định các tài khoản cấp 2 theo từng hoạt động, tài khoản 431 - Các quỹ theo Thông tư 24 chỉ còn quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp và quỹ khác thuộc đơn vị thay vì bao gồm cả quỹ khen thưởng, phúc lợi và bổ sung thu nhập, quỹ dự phòng ổn định thu nhập như quy định của Thông tư 107. Tài khoản 468 - Nguồn cải cách tiền lương theo Thông tư 107 được gọi tên đúng tính chất của nguồn này là 468 - Nguồn kinh phí mang sang năm sau, trong đó gồm kinh phí cải cách tiền lương và kinh phí khác. Từ đó, có thể thấy nhóm tài khoản loại 4 theo Thông tư 24 được bố trí, sắp xếp và hướng dẫn hạch toán để phản ánh các tài sản thuần của đơn vị, tức các nguồn lực thuộc về đơn vị được xác định bằng tổng tài sản trừ đi nợ phải trả. Về tài khoản loại 5 Đây là nhóm tài khoản có sự thay đổi lớn tại Thông tư 24 so với Thông tư 107. Tên gọi các tài khoản chuyển đổi từ Thu sang Doanh thu, điển hình như tài khoản 511 - Thu hoạt động do ngân sách nhà nước cấp thành 511 - Doanh thu từ kinh phí ngân sách nhà nước cấp và không qui định tài khoản cấp 2 chi tiết theo khoản chi thường xuyên hay không thường xuyên hay hoạt động khác; tài khoản 512 - Thu viện trợ, vay nợ nước ngoài chuyển thành tài khoản Doanh thu từ kinh phí ngân sách nhà nước cấp và tài khoản 514 - Thu phí được khấu trừ để lại đổi thành tài khoản 514 - Doanh thu từ phí được khấu trừ để lại. Các tài khoản 515, 531 được giữ nguyên, tuy nhiên tài khoản 531 được chi tiết hơn thành các tài khoản cấp 2 tương ứng với nguồn của khoản thu là đơn vị trực tiếp thu hay sử dụng từ ngân sách nhà nước. Thông tư 24 bổ sung thêm tài khoản 518 - Doanh thu từ hoạt động nghiệp vụ. Như vậy, thay vì phản ánh khoản thu, doanh thu của đơn vị như Thông tư 107 thì Thông tư 24 phản ánh doanh thu của đơn vị, nội dung phản ánh các nguồn lực đơn vị thu được trong kì báo cáo làm tăng tài sản thuần của đơn vị, không bao gồm các khoản đơn vị kế toán cấp dưới nhận kinh phí điều hòa tập trung do đơn vị kế toán cấp trên cấp từ quỹ thuộc đơn vị hoặc từ kinh phí mang sang năm sau. Đặc biệt, trong nguyên tắc và hướng dẫn hạch toán các tài khoản loại 5, Thông tư 24 làm rõ và cụ thể doanh thu từ giao dịch không trao đổi và doanh thu từ giao dịch trao đổi. Những nội dung này rất tiệm cận và tương thích với Chuẩn mực Kế toán công Việt Nam số 23 và 09 đã được ban hành. Về tài khoản loại 6 Thông tư 24 thay đổi từ cách tiếp cận chi phí theo từng hoạt động và chi tiết theo tính chất thường xuyên hay không thường xuyên, nội dung chi cụ thể như chi lương, chi vật tư, chi khấu hao… của Thông tư 107 sang tiếp cận thiên về đặc điểm khoản chi tự chủ hay không tự chủ và chi tiết theo nội dung chi cụ thể như chi lương, chi vật tư, chi khấu hao… Do đó, các tài khoản cấp 1 loại 6 của Thông tư 24 có sự thay đổi từ 7 tài khoản xuống còn 6 tài khoản với tên gọi có nhiều thay đổi. Tài khoản 611 - Chi hoạt động thành tài khoản 611 - Chi phí hoạt động không giao tự chủ, tài khoản 612 - Chi từ nguồn viện trợ, vay nợ nước ngoài thay bằng 612 - Chi phí hoạt động giao tự chủ; Thông tư 24 bỏ tài khoản 614 - Chi phí hoạt động thu phí và tài khoản 652 - Chi phí chưa xác định đối tượng chịu chi phí đồng thời lại bổ sung thêm tài khoản 641 - Chi phí bán hàng. Sự thay đổi lớn này nhằm hướng tới phản ánh chi phí tại các đơn vị sự nghiệp và các cơ quan nhà nước, các đơn vị không có hoạt động sản xuất kinh doanh được rõ ràng, thuận tiện và đơn giản hơn. Đồng thời, việc bổ sung tài khoản 641 kết hợp với tài khoản 642 cũng giúp các đơn vị sự nghiệp theo dõi được chi phí của hoạt động sản xuất kinh doanh tách biệt hai khâu bán hàng và quản lý được rõ ràng hơn, do đó sẽ đáp ứng được nhu cầu quản lý tốt, ra quyết định hiệu quả hơn. Tài khoản loại 7 và 8 Nhóm các loại tài khoản này không có sự thay đổi lớn. Thông tư 24 bổ sung thêm tài khoản 812 - Chi phí tài sản bàn giao dành cho các đơn vị được giao mua sắm ấn chỉ, nguyên liệu, vật liệu, công cụ, dụng cụ, tài sản cố định cho toàn ngành khi thưc hiện cấp phát tài sản đã mua sắm cho đơn vị khác hoặc tại ban quản lý dự án đầu tư khi thực hiện bàn giao dự án, công trình hoàn thành cho cơ quan, đơn vị khác quản lý và sử dụng. Việc bổ sung này đáp ứng nhu cầu quản lý của các đơn vị nói trên. Tài khoản loại 9 Thông tư 24 chỉ quy định một tài khoản cấp 1 duy nhất 911 - Xác định kết quả, không chi tiết tài khoản cấp 2 theo từng hoạt đông như Thông tư 107, phù hợp với chủ trương không theo dõi chi tiết cho từng hoạt động trong đơn vị mà chỉ xác định kết quả hoạt động chung của đơn vị. Điều này cũng phù hợp và khắc phục được khó khăn khi thực hiện phân phối kết quả hoạt động vào các quỹ và cho các bên liên quan. Thông tư cũng chỉ rõ các đơn vị hoàn toàn chủ động mở tài khoản chi tiết để theo dõi cho từng hoạt động theo yêu cầu quản lý. Về các tài khoản ngoại bảng Tương ứng với sự thay đổi của các tài khoản trong bảng, 20 tài khoản ngoại bảng được ban hành theo Thông tư 24 thay đổi hầu hết kí hiệu, tên gọi, nội dung cũng như các tài khoản chi tiết. Tuy nhiên cũng như bản chất của 11 tài khoản ngoại bảng được ban hành theo Thông tư 107 thì các tài khoản ngoại bảng được sử dụng cùng mục đích hạch toán các nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh chưa được hoạch toán vào các tài khoản trong bảng, đồng thời haạch toán nhận và sử dụng kinh phí để theo dõi số liệu phục vụ cho yêu cầu quyết toán kinh phí theo mục lục ngân sách nhà nước theo quy định. Do đó, khi thực hiện kế toán, các đơn vị dựa vào tính chất nghiệp vụ và nhu cầu quản lý để sử dung các tài khoản ngoại bảng thích hợp. 3. Kết luận Chế độ kế toán hành chính, sự nghiệp mới được Bộ Tài chính ban hành theo Thông tư 24, áp dụng từ năm 2025, bên cạnh những quy định mới đối với công tác kế toán trong các đơn vị hành chính, sự nghiệp thì sự thay đổi hệ thống tài khoản kế toán theo Thông tư 24 áp dụng từ 01/01/2025 đặt ra yêu cầu nghiên cứu, áp dụng và thực hiện thay đổi nhiều đối với kế toán các đơn vị hành chính sự nghiệp. Nhưng dựa trên sự phân tích khái quát trên có thể thấy những thay đổi là cần thiết và phù hợp, hiệu quả hơn đối với các đơn vị. Những thay đổi này dẫn tới yêu cầu đặt ra hiện nay đối với các đơn vị kế toán hành chính, sự nghiệp là cần nghiên cứu, tổ chức thực hiện tốt các quy định của Thông tư trong thực tiễn hoạt động nói chung và công tác kế toán của các đơn vị nói riêng. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Thông tư 24/2024/TT-BTC hướng dẫn chế độ kế toán hành chính, sự nghiệp; 2. Thông tư số 107/2017/TT-BTC hướng dẫn chế độ kế toán hành chính, sự nghiệp; 3. Https://vcsvietnam.com/bai-viet/che-do-ke-toan-hanh-chinh-su-nghiep-moi-ban-hanh-va-quy-dinh-ve-su-dung-phan-mem-trong-cong-tac-ke-toan. Tác giả: Ths. Nguyễn Thị Cảnh Hoa, Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội (Theo Tạp chí Nghiên cứu khoa học kiểm toán, tháng 9/2024)

Giải pháp ứng dụng công nghệ thông tin hỗ trợ hoạt động kiểm toán của Kiểm toán nhà nước trong việc thu thập, phân loại các thông tin về đấu thầu được đăng tải trên hệ thống mạng đấu thầu quốc gia

Trong bất kì nền kinh tế nào, đấu thầu luôn là phương thức hữu hiệu nhất để chủ đầu tư có thể chọn được những nhà thầu có khả năng tốt nhất và đưa ra mức giá hợp lý nhất. Ứng dụng các tiến bộ của công nghệ thông tin vào hoạt động đấu thầu mua sắm công trên cơ sở đảm bảo quản trị tốt, góp phần phát triển kinh tế xã hội, cải cách thủ tục hành chính, tăng cường tính công khai, minh bạch, cạnh tranh và hiệu quả kinh tế, ngăn ngừa tham nhũng và nâng cao niềm tin của người dân vào hoạt động đấu thầu mua sắm công. 1. Những vấn đề lý luận chung về đấu thầu và Hệ thống đấu thầu quốc gia Theo Luật Đấu thầu, đấu thầu là quá trình lựa chọn nhà thầu để ký kết và thực hiện hợp đồng cung cấp dịch vụ tư vấn, dịch vụ phi tư vấn, mua sắm hàng hóa, xây lắp; lựa chọn nhà đầu tư để ký kết và thực hiện hợp đồng dự án đầu tư theo hình thức đối tác công tư, dự án đầu tư có sử dụng đất trên cơ sở bảo đảm cạnh tranh, công bằng, minh bạch và hiệu quả kinh tế. Mục tiêu chính của đấu thầu là đảm bảo sự hiệu quả về chi phí, đảm bảo chọn lựa nhà thầu có khả năng thực hiện với giá hợp lý nhất. Đấu thầu tạo ra một môi trường cạnh tranh, khuyến khích sự cạnh tranh giữa các nhà thầu để cung cấp giải pháp hay sản phẩm tốt nhất. Quá trình đấu thầu cần đảm bảo tính minh bạch và công bằng trong quá trình chọn lựa nhà thầu, tạo niềm tin từ các bên liên quan. Nguyên tắc cơ bản của đấu thầu: ■ Nguyên tắc cạnh tranh: Cung cấp cơ hội cho nhiều nhà thầu cạnh tranh, tạo điều kiện cho sự sáng tạo và cải thiện liên tục. ■ Nguyên tắc công bằng: Đảm bảo mỗi nhà thầu có cơ hội bình đẳng để tham gia và được đánh giá dựa trên năng lực thực sự. ■ Nguyên tắc minh bạch: Cung cấp thông tin đầy đủ và minh bạch về quá trình đấu thầu, từ quy trình chào giá đến lựa chọn nhà thầu. ■ Nguyên tắc hiệu quả chi phí: Chọn lựa nhà thầu dựa trên khả năng thực hiện hiệu quả và chi phí hợp lý. Theo quy định tại Luật Đấu thầu, thì Hệ thống đấu thầu quốc gia là hệ thống công nghệ thông tin do cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động đấu thầu xây dựng và quản lý nhằm mục đích thống nhất quản lý thông tin về đấu thầu và thực hiện đấu thầu qua mạng. Năm 2009, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, với sự trợ giúp của Chính phủ Hàn Quốc mà đại diện là Cơ quan hợp tác quốc tế Hàn Quốc (KOICA), đã tiến hành xây dựng Hệ thống đấu thầu điện tử thử nghiệm tại địa chỉ http://muasamcong.mpi.gov.vn dựa trên Hệ thống mua sắm chính phủ điện tử của Hàn Quốc (KONEPS) và được tối ưu hóa phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam. Trong giai đoạn thí điểm, Hệ thống do Bộ Kế hoạch và Đầu tư quản lý và vận hành cung cấp cho người sử dụng đầy đủ các chức năng từ đăng tải kế hoạch đấu thầu, sơ tuyển, thông báo mời thầu, nộp hồ sơ dự thầu, lập biên bản mở thầu cho đến đăng tải kết quả đấu thầu, kiến nghị trong đấu thầu… Hệ thống đấu thầu quốc gia (hệ thống e-GP) mới được xây dựng trong khuôn khổ dự án "Ứng dụng thương mại điện tử trong mua sắm chính phủ" theo hình thức đối tác công tư (PPP) do Bộ Kế hoạch và Đầu tư là cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền chỉ đạo. Theo đó, hệ thống e-GP chạy được trên đa trình duyệt và đáp ứng mục tiêu quản lý thống nhất thông tin về đấu thầu cũng như thực hiện đấu thầu qua mạng. Hệ thống mới được chạy trên địa chỉ: https://muasamcong.mpi.gov.vn thay vì địa chỉ cũ: http://muasamcong.mpi.gov.vn (khác nhau chữ "s" ở http). Được đưa vào vận hành chính thức từ giữa tháng 9/2022, hệ thống e-GP được thiết kế với 11 phân hệ thành phần gồm cổng thông tin; quản lý người dùng; hỗ trợ người dùng; đấu thầu điện tử; mua sắm điện tử; quản lý hợp đồng điện tử; thanh toán điện tử; danh mục sản phẩm; văn bản điện tử; quản lý năng lực nhà cung cấp và bảo lãnh điện tử. 2. Thực trạng công tác thu thập, phân loại các thông tin về đấu thầu được đăng tải trên Hệ thống đấu thầu quốc gia tại Kiểm toán nhà nước 2.1. Nhu cầu về thu thập, phân loại thông tin về đấu thầu của Kiểm toán nhà nước Trong quá trình kiểm toán, đối với việc kiểm toán công tác lựa chọn nhà thầu cho thấy các sai sót thường gặp như: Hồ sơ mời thầu không đầy đủ, rõ ràng, chi tiết; phê duyệt hồ sơ và kế hoạch lựa chọn thầu không đúng thẩm quyền, không đủ số lượng nhà thầu tham dự tối thiểu (đối với đấu thầu hạn chế) hoặc không có nhà thầu tham dự do lập giá gói thầu quá thấp, không chấp hành quy định về thời gian; mở thầu không đủ thành phần; xét thầu không công bằng, thiếu cơ sở; không tổ chức đấu thầu rộng rãi mà chỉ đấu thầu hạn chế hoặc chỉ định thầu; hồ sơ mời thầu lập có sai sót dẫn tới việc lựa chọn nhà thầu không đảm bảo yêu cầu dự án làm ảnh hưởng đến tiến độ và chất lượng công trình; mô tả gói thầu không đầy đủ, rõ ràng dẫn đến cách hiểu không như nhau dễ dẫn đến xảy ra tranh chấp khi thực hiện hợp đồng; tiêu chí đánh giá hồ sơ dự thầu không hợp lý, qua đó tạo điều kiện cho các nhà thầu có ít năng lực, kinh nghiệm vẫn có thể tham gia đấu thầu và trúng thầu hoặc có thể đưa ra những tiêu chí đánh giá bất lợi cho các nhà thầu có năng lực… Qua đó cho thấy, nhu cầu về phần mềm thu thập, phân loại thông tin đấu thầu với mục tiêu: Xây dựng Hệ thống thông tin đấu thầu phục vụ hoạt động kiểm toán giúp nâng cao hiệu quả ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động kiểm toán; hỗ trợ tổng hợp, thu thập được đầy đủ các thông tin về đấu thầu đáp ứng được nhu cầu của các kiểm toán viên, thành viên đoàn kiểm toán, tổ kiểm toán trong quá trình thực hiện kiểm tra tại các đơn vị và hoạt động kiểm toán nói chung cũng như khi có nhu cầu. Kiểm toán nhà nước cần xác định rõ mục tiêu sử dụng thông tin đấu thầu để có cái nhìn chi tiết và tổng quan về các hoạt động đấu thầu mua sắm công. Việc này đặt ra câu hỏi về mục đích cụ thể như kiểm toán những gói thầu lớn, theo dõi chiến lược của nhà thầu hay đánh giá hiệu suất toàn bộ quá trình. Về việc xác định độ chi tiết cần thiết: Nhu cầu về chi tiết thông tin cần phản ánh sự đa dạng và chiều sâu của các hoạt động đấu thầu. Kiểm toán nhà nước cần xác định mức độ chi tiết cần thiết để đảm bảo rằng thông tin thu được không chỉ đáp ứng các yêu cầu cụ thể của nhiệm vụ kiểm toán mà còn cung cấp cái nhìn tổng thể. Quá trình thu thập và phân loại thông tin cần được thống nhất với các tiêu chuẩn và quy trình của Kiểm toán nhà nước. Điều này đảm bảo rằng dữ liệu thu được có tính nhất quán và có thể được so sánh và phân tích một cách hiệu quả. Ngoài việc xác định mục tiêu, Kiểm toán nhà nước cũng cần xác định đối tượng cụ thể cần theo dõi. Có thể đó là các gói thầu cụ thể, nhà thầu chiến lược, hoặc các dự án mua sắm công đặc biệt. * Về phân loại nhu cầu, bao gồm: Thu thập thông tin và chuẩn hóa về đối tượng nghiệp vụ; Phân loại đối tượng; tìm mối liên kết giữa các đối tượng; hệ thống báo cáo về các đối tượng; nhu cầu phân tích chuyên sâu về các rủi ro trong hoạt động đấu thầu. * Về nội dung, nhu cầu chủ yếu:  - Xây dựng Hệ thống thông tin đấu thầu phục vụ hoạt động kiểm toán cung cấp các thông tin về nhà thầu, nhà đầu tư, thông tin các gói thầu, kế hoạch lựa chọn nhà thầu. - Thu thập thông tin đấu thầu phục vụ hoạt động kiểm toán là công cụ tác nghiệp của cán bộ có nhu cầu khai thác thông tin về đấu thầu trong quá trình thu thập thông tin kiểm toán. - Hình thành cơ sở dữ liệu điện tử của cơ quan về thông tin đấu thầu, sẵn sàng phục vụ khai thác, phân tích thông tin khi cần thiết. - Hệ thống thông tin đấu thầu phục vụ hoạt động kiểm toán cung cấp các thông tin về đấu thầu, được cài đặt trên hệ thống hạ tầng hiện có của Kiểm toán nhà nước. Kết nối và cung cấp dữ liệu cho các hệ thống phần mềm khác của Kiểm toán nhà nước nhằm tận dụng cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin hiện có. 2.2 Thực trạng thu thập, phân loại thông tin về đấu thầu trên Hệ thống đấu thầu quốc gia Hiện nay, cán bộ có nhu cầu tìm hiểu về thông tin đấu thầu gắn với các đối tượng được kiểm toán là hoàn toàn thụ động, phải thông qua sự chắt lọc từ những thông tin rời rạc thu thập được từ trên mạng qua các nguồn khác nhau, do đó thông tin không đảm bảo đầy đủ, chính xác như mong muốn. Trong quá trình thu thập dữ liệu cho thấy dữ liệu lấy từ Hệ thống đấu thầu quốc gia vẫn là dữ liệu thô, nhiều trường dữ liệu chưa được chuẩn hóa, chưa được tổ chức thành danh mục (ví dụ như đối với dự án và chủ đầu tư), thiếu thông tin định danh. Vì vậy, để khai thác được dữ liệu theo đơn vị, chủ đầu tư hoặc bên mời thầu, liên kết thông tin dự án, gói thầu và quá trình tổ chức đấu thầu, cần phải tổ chức chuẩn hóa dữ liệu để liên kết được dữ liệu, từ đó phục vụ việc tìm kiếm, khai thác thông tin bằng phần mềm theo các tiêu chí khác nhau. Hiện tại, các kiểm toán viên nói riêng và Kiểm toán nhà nước hiện chưa có một công cụ hữu hiệu nào có thể tổng hợp, thu thập được đầy đủ các thông tin về đấu thầu đáp ứng được nhu cầu của cán bộ kiểm toán khi có nhu cầu. Trong khi đó, xu thế chung hiện nay, lựa chọn nhà thầu qua mạng đã dần trở nên phổ biến. 2.3 Hạn chế, tồn tại trong thu thập, phân loại thông tin về đấu thầu trên Hệ thống đấu thầu quốc gia - Công tác thống kê số liệu: Các dự án được đăng tải trên Hệ thống đấu thầu quốc gia độc lập với nhau, không có thông tin để phân cấp dự án và các dự án thành phần (dự án cha và các dự án thành phần hoặc tiểu dự án). - Một dự án nhưng được đăng nhiều lần theo tiến độ triển khai gói thầu thực tế có thể dẫn đến số thống kê dự án sẽ tăng nhiều so với thực tế, đồng thời ảnh hưởng đến việc liên kết thông tin dự án và các gói thầu trong dự án. - Thông tin dự án khai thác theo nhóm dự án được đăng tải còn chưa theo tiêu chí phân loại dự án được quy định tại Luật Đầu tư công. - Quá tải thông tin: Lượng thông tin đấu thầu khổng lồ có sẵn trên Hệ thống đấu thầu quốc gia đôi khi có thể quá tải, khiến kiểm toán viên gặp khó khăn trong việc xác định các thông tin phù hợp nhất - Xác định hiệu quả (tỷ lệ tiết kiệm) công tác đấu thầu, lựa chọn nhà thầu các dự án sử dụng vốn đầu tư công. - Hạn chế trong xác minh thông tin: Việc phân loại thông tin đấu thầu có sẵn trên Hệ thống đấu thầu quốc gia để tránh lãng phí thời gian và nguồn lực khi truy cập, khai thác. Như:  Xác định số lượng nhà thầu tham dự; Xác định đảm bảo dự thầu; Xác định việc điều chỉnh, bổ sung sau khi nộp hồ sơ dự thầu;  Xác định việc liên danh giữa các nhà thầu; Xác định ý kiến phản hồi về sai sót của hồ sơ mời thầu… 3. Giải pháp ứng dụng công nghệ thông tin trong thu thập, phân loại các thông tin về đấu thầu từ Hệ thống đấu thầu quốc gia 3.1. Tổng quan về các giải pháp ứng dụng công nghệ thông tin trong thu thập, phân tích, xử lý dữ liệu Thu thập dữ liệu là quá trình tổng hợp và đánh giá thông tin hoặc dữ liệu từ nhiều nguồn khác nhau để tìm kiếm câu trả lời cho vấn đề nghiên cứu, giải đáp câu hỏi, đánh giá kết quả và dự báo xu hướng và xác suất. Đây là một giai đoạn quan trọng trong mọi nghiên cứu, phân tích và quyết định, bao gồm cả những công việc trong lĩnh vực khoa học xã hội, kinh doanh và chăm sóc sức khỏe. Các phương pháp thu thập dữ liệu thay đổi tùy thuộc vào loại ứng dụng cụ thể. Một số phương pháp liên quan đến việc sử dụng công nghệ, trong khi những phương pháp khác lại là quy trình thủ công. Trong quá trình thu thập dữ liệu, có 5 bước chính cần được thực hiện. Dưới đây là giải thích ngắn gọn về mỗi bước: Quyết định dữ liệu muốn thu thập; Thiết lập thời hạn thu thập dữ liệu; Chọn phương pháp thu thập dữ liệu; Thu thập thông tin; Kiểm tra thông tin và áp dụng kết quả. Dữ liệu ở dạng thô thường không có nhiều giá trị hữu ích, vì vậy để khai thác triệt để các thông tin và giá trị từ dữ liệu thì quá trình xử lý dữ liệu là rất cần thiết. Xử lý dữ liệu là phương pháp thu thập dữ liệu thô và chuyển nó thành thông tin có thể sử dụng được. Dữ liệu sau khi thu thập sẽ lần lượt trải qua các quá trình như lọc, sắp xếp, xử lý, phân tích, lưu trữ… Quy trình này thường được thực hiện bởi các nhà khoa học và kỹ sư dữ liệu. Về cơ bản, chu trình xử lý dữ liệu thường có 6 giai đoạn được thể hiện như Hình dưới đây: Chu trình xử lý dữ liệu ​​​​​ 3.2 Mô hình giải pháp tổng thể Để tối ưu hóa quá trình thu thập và phân loại thông tin đấu thầu trên Hệ thống đấu thầu quốc gia, nghiên cứu đề xuất xây dựng một mô hình tích hợp chứa đựng các thành phần chính: (1) Web Crawling (WS), (2) Mô hình AI, (3) Kho dữ liệu (Data warehouse - DWH) và (4) Business Intelligence (BI). Mô hình này không chỉ giúp thu thập dữ liệu một cách hiệu quả mà còn tự động hóa quá trình phân loại thông tin. Các thành phần của mô hình được miêu tả như Hình 2.1 dưới đây: Mô hình tổng thể đề xuất Tổng quan chức năng của từng thành phần được miêu tả như sau: 1. Web Crawling và Thu thập thông tin: Sử dụng Scrapy để tự động hóa việc thu thập thông tin từ trang web đấu thầu quốc gia. Điều này giúp tiết kiệm thời gian và đảm bảo tính chính xác và linh hoạt trong quá trình thu thập dữ liệu động. 2. Mô hình AI - NLP: Sử dụng mô hình AI NLP như BERT để phân loại thông tin đấu thầu thành các đối tượng nghiệp vụ cụ thể. Mô hình này tự động cập nhật khi có dữ liệu mới. Cùng với đó các thư viện xử lý ngôn ngữ tự nhiên như NLTK hoặc spaCy để tiền xử lý văn bản. Đồng thời, chuẩn hóa dữ liệu về định dạng chuẩn để thuận tiện cho quá trình phân loại. Với mô hình này, chúng sẽ đạt được hiệu quả cao, giảm thiểu sự can thiệp của con người, và đảm bảo tính chính xác và linh hoạt trong quá trình quản lý thông tin đấu thầu quốc gia. 3. Kho dữ liệu (Data warehouse - DWH): Dữ liệu thu thập và xử lý được lưu trữ trong kho dữ liệu linh hoạt. Điều này giúp quản lý hiệu suất và tốc độ truy vấn, đồng thời đáp ứng nhanh chóng với sự gia tăng lượng dữ liệu. 4. Xây dựng Hệ thống Business Intelligence (BI): Các công cụ BI như Tableau hoặc Power BI được tích hợp để tạo ra các bảng điều khiển và báo cáo dữ liệu. Điều này giúp người dùng dễ dàng tạo các thống kê quan trọng và tương tác với thông tin. Dữ liệu sau khi phân loại cũng sẽ được tích hợp vào công cụ BI giúp người dùng nhanh chóng tìm hiểu thông tin và xu hướng. 3.3 Giải pháp ứng dụng công nghệ thông tin trong việc thu thập dữ liệu từ Hệ thống đấu thầu quốc gia Giải pháp đề xuất Web crawling: Web crawling là một phương pháp tự động hóa để thu thập dữ liệu từ trang web một cách hiệu quả. Trong trường hợp này, Web crawling sẽ được áp dụng để trích xuất thông tin về đấu thầu từ Hệ thống đấu thầu quốc gia.   Minh họa về Web Crawling Các ưu điểm khi sử dụng phương pháp này có thể kể đến như: • Tiết kiệm thời gian và năng lực: Web crawling giúp tự động hóa quá trình thu thập dữ liệu, giảm thiểu sự can thiệp thủ công và tiết kiệm thời gian cho Kiểm toán nhà nước. • Độ chính xác và tính nhất quán: Phương pháp này cung cấp độ chính xác và tính nhất quán cao vì thông tin được lấy trực tiếp từ nguồn mà không phải thông qua bước trung gian. • Theo dõi thời gian thực: Web crawling có thể được thiết lập để theo dõi thời gian thực, đảm bảo rằng Kiểm toán nhà nước có được thông tin mới nhất và cập nhật. Về các bước thực hiện giải pháp Web Crawling có thể bao gồm các công việc như: 1. Lập kế hoạch và thiết kế cấu trúc Web Crawling: Xác định các trang web cần thu thập dữ liệu, và thiết kế cấu trúc web crawling để đảm bảo phủ hết thông tin quan trọng từ các trang đó. 2. Xác định dữ liệu cần thu thập: Đặt ra các tiêu chí cụ thể và quyết định loại thông tin cần thu thập từ Hệ thống đấu thầu quốc gia. Điều này bao gồm thông tin về gói thầu, chủ thầu, lịch sử đấu thầu, v.v. 3. Phát triển và tối ưu hóa robot web crawling: Xây dựng robot web crawling hoặc sử dụng các công cụ có sẵn, điều chỉnh và tối ưu hóa chúng để đảm bảo hiệu suất và tính ổn định trong quá trình thu thập dữ liệu. 4. Xử lý dữ liệu thu thập: Sau khi thu thập được dữ liệu, tiến hành xử lý để đảm bảo độ chính xác và phù hợp với định dạng mà Kiểm toán nhà nước yêu cầu. 5. Đảm bảo tuân thủ pháp luật và chính sách: Kiểm tra và đảm bảo rằng quá trình web crawling tuân thủ tất cả các quy định pháp luật và chính sách về quyền riêng tư và bảo mật thông tin. Nghiên cứu đề xuất giải pháp thu thập dữ liệu từ Hệ thống đấu thầu quốc gia bằng kỹ thuật Web crawling được mô tả như Hình 2.11 dưới đây: Giải pháp thu thập dữ liệu từ bằng kỹ thuật Web Crawling Phương pháp Web Crawling được thực hiện thông qua việc bóc tách và phân tích trên hệ thống website e-GP. Quá trình thu thập dữ liệu được tổ chức thông qua các luồng xử lý và tiến trình dựa trên các thuật toán tiên tiến. Điều này không chỉ giới hạn việc quét qua các trang, thu thập và lập chỉ mục thông tin mà còn mở rộng tìm kiếm đến các liên kết có liên quan, tăng cường phạm vi thu thập. Các tiến trình được đặt lịch trình chạy theo các khoảng thời gian cụ thể, giúp đảm bảo sự đều đặn và hiệu quả trong việc cập nhật dữ liệu. Quá trình này không chỉ giúp tự động hóa thu thập mà còn đảm bảo rằng thông tin mới nhất và quan trọng nhất được cập nhật đúng, kịp thời. Dữ liệu sau khi thu thập được không chỉ được lưu trữ trong cơ sở dữ liệu mà còn kèm theo Meta-data của chúng, giúp theo dõi nguồn gốc, thời gian thu thập và các thông tin liên quan khác. Quá trình này giúp tạo ra một nguồn dữ liệu có cấu trúc, dễ quản lý và có thể được sử dụng một cách hiệu quả cho quá trình kiểm toán và phân tích. 3.4. Giải pháp ứng dụng công nghệ thông tin trong việc xử lý và phân loại các thông tin về đấu thầu sau khi thu thập từ Hệ thống đấu thầu quốc gia Việc phân loại và xử lý lượng lớn thông tin từ Hệ thống đấu thầu quốc gia đòi hỏi giải pháp hiệu quả và tự động để tối ưu hóa công việc kiểm toán. Một trong những phương pháp tiên tiến là sử dụng Trí tuệ nhân tạo và cụ thể là các mô hình xử lý ngôn ngữ tự nhiên (NLP). Mô hình xử lý được đề xuất như sau: Mô hình xử lý, phân loại dữ liệu đề xuất Tiền xử lý dữ liệu: ■ Dữ liệu đấu thầu thu thập từ Hệ thống đấu thầu quốc gia được tiền xử lý để loại bỏ nhiễu và chuẩn hóa văn bản. ■ Các thông tin cần phân loại như loại hình đấu thầu, ngành nghề, quy mô dự án được trích xuất và gán nhãn. Lựa chọn mô hình NLP: ■ Chọn một mô hình NLP phù hợp với yêu cầu, có khả năng hiểu và phân tích các thuộc tính đặc trưng của dữ liệu đấu thầu. Các mô hình học máy hiện đại như BERT, GPT, hoặc các mô hình phân loại văn bản như Naive Bayes có thể được sử dụng. Huấn luyện mô hình: ■ Mô hình NLP được huấn luyện trên dữ liệu được gán nhãn để học cách phân loại thông tin vào các danh mục tương ứng. Cùng với đó là tối ưu hóa mô hình để đạt được độ chính xác cao và khả năng tự động hóa tốt. Phân loại tự động: ■ Mô hình được triển khai để tự động phân loại thông tin mới từ Hệ thống đấu thầu quốc gia vào các danh mục đã xác định trước. ■ Quá trình này diễn ra liên tục và tự động, giúp cập nhật thông tin mới một cách nhanh chóng. Điều chỉnh và giám sát: ■ Liên tục giám sát hoạt động của mô hình để đảm bảo độ chính xác và đồng nhất trong việc phân loại. ■ Nếu có thay đổi trong cấu trúc dữ liệu đấu thầu hoặc xuất hiện các trường hợp đặc biệt, mô hình được điều chỉnh để phản ánh những thay đổi này. Tính tự động và linh hoạt của các mô hình NLP trong việc phân loại dữ liệu đấu thầu giúp tối ưu hóa quá trình kiểm toán, giảm công sức và thời gian, đồng thời đảm bảo rằng thông tin được sắp xếp và quản lý một cách chính xác và hiệu quả. Mô hình tra cứu thông tin Về việc sử dụng mô hình tra cứu thông tin, Elasticsearch là một công nghệ mạnh mẽ được sử dụng chủ yếu cho việc tra cứu và lưu trữ dữ liệu trong các ứng dụng và hệ thống phức tạp. Được xây dựng dựa trên Apache Lucene, Elasticsearch cung cấp một cơ sở dữ liệu tìm kiếm phân tán, linh hoạt và hiệu suất cao. Các ưu điểm chính của Elasticsearch: ■ Tra cứu hiệu quả: Elasticsearch sử dụng cơ sở dữ liệu ngược (inverted index) để tăng tốc quá trình tra cứu. Điều này giúp tìm kiếm thông tin một cách nhanh chóng và hiệu quả, đặc biệt khi đối mặt với lượng dữ liệu lớn. ■ Phân tán và mở rộng dễ dàng: Elasticsearch được thiết kế để hoạt động trên một mô hình phân tán, cho phép nó linh hoạt mở rộng để xử lý tăng trưởng dữ liệu và người dùng. Cụm máy chủ có thể được thêm vào hệ thống mà không làm giảm hiệu suất. ■ Lưu trữ dữ liệu đa dạng: Elasticsearch hỗ trợ lưu trữ và tra cứu nhiều loại dữ liệu khác nhau, bao gồm văn bản, số, địa lý, và nhiều loại dữ liệu khác. Điều này làm cho nó trở thành một giải pháp đa nhiệm cho nhiều loại ứng dụng. ■ Api đa dạng: Elasticsearch cung cấp nhiều api cho phép tương tác với hệ thống, bao gồm Restful API, Json API, và nhiều API khác, giúp dễ dàng tích hợp và tương tác với các ứng dụng khác. ■ Hỗ trợ tìm kiếm gần nhất (proximity search): Elasticsearch cho phép thực hiện các truy vấn tìm kiếm gần nhất, giúp người dùng tìm kiếm thông tin có liên quan dựa trên sự gần kề của từ khóa. Mô hình tra cứu thông tin dựa trên Elasticsearch được đề xuất như sau: Mô hình tra cứu thông tin Theo mô hình trên, kiểm toán viên sử dụng giao diện tra cứu thông tin để trực tiếp tương tác với Hệ thống Elasticsearch, nơi chứa dữ liệu đấu thầu. Dưới đây là mô tả chi tiết về cấu trúc của hệ thống: ■ Kiểm toán viên: là người sử dụng cuối cùng của hệ thống, kiểm toán viên sử dụng giao diện tra cứu thông tin để thực hiện các truy vấn và tìm kiếm thông tin liên quan đến đấu thầu. Giao diện này có thể cung cấp các tính năng tìm kiếm nâng cao, lọc dữ liệu và hiển thị kết quả một cách trực quan. ■ Giao diện tra cứu thông tin: giao diện này là điểm giao tiếp giữa kiểm toán viên và hệ thống. Nó có thể được thiết kế để đơn giản, dễ sử dụng và có khả năng tương tác linh hoạt. ■ Hệ thống Elasticsearch: là cốt lõi của hệ thống, Elasticsearch chứa và quản lý dữ liệu đấu thầu. Các chức năng chính bao gồm tra cứu, tìm kiếm, và lưu trữ dữ liệu một cách hiệu quả. ■ Dữ liệu đấu thầu: gồm ba phần chính: kế hoạch lựa chọn nhà thầu, thông báo mời thầu, và kết quả lựa chọn nhà thầu. Mỗi phần có thể được tổ chức và lưu trữ theo định dạng cấu trúc, giúp việc tra cứu và tìm kiếm trở nên thuận tiện. Với mô hình này, kiểm toán viên có khả năng nhanh chóng và dễ dàng tìm kiếm thông tin cần thiết với giao diện tra cứu thông tin và sức mạnh của Elasticsearch. Dữ liệu đấu thầu được tổ chức và lưu trữ một cách linh hoạt, cho phép dễ dàng mở rộng và thêm mới thông tin khi cần thiết. Kết luận Bài viết đã tập trung phân tích và đề xuất giải pháp ứng dụng công nghệ thông tin để hỗ trợ hoạt động kiểm toán của Kiểm toán nhà nước trong việc thu thập và phân loại thông tin về đấu thầu từ Hệ thống đấu thầu quốc gia. Bài viết đã chỉ ra rằng việc ứng dụng công nghệ thông tin không chỉ giúp tăng hiệu quả công việc, giảm thiểu sai sót, mà còn mở ra cơ hội tích hợp thông tin từ nhiều nguồn khác nhau, tạo ra một cơ sở dữ liệu tổ chức và dễ quản lý. Bằng cách này, Kiểm toán nhà nước có thể nâng cao khả năng đáp ứng nhanh chóng và linh hoạt trước sự biến động của môi trường kinh tế. Sự ứng dụng công nghệ thông tin không chỉ đơn thuần là một tiến bộ trong công nghệ mà còn là một bước quan trọng hướng tới sự minh bạch, công khai và niềm tin từ phía cộng đồng và dư luận. Tóm lại, việc ứng dụng công nghệ thông tin không chỉ là một nhu cầu cần thiết mà còn là một bước quan trọng để đưa Kiểm toán nhà nước vào một tương lai hiệu quả và tích cực hơn trong việc đảm bảo sự minh bạch và công khai trong quá trình kiểm toán. Tài liệu tham khảo 1. Luật Đấu thầu số 43/2013/QH13 ngày 26/11/2013 và Luật Đấu thầu số 22/2023/QH15 ngày 23/06/2023 của Quốc hội; Nghị định số 63/2014/NĐ-CP ngày 26/6/2014 và Nghị định 24/2024/NĐ-CP ngày 27/02/2024 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đấu thầu về lựa chọn nhà thầu; 2. Thông tư số 06/2017/TT-BKHĐT ngày 05/12/2017 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư quy định chi tiết việc cung cấp thông tin về đấu thầu, báo cáo tình hình thực hiện hoạt động đấu thầu về lựa chọn nhà thầu; 3. Thông tư số 08/2022/TT-BKHĐT ngày 31/05/2022 quy định chi tiết việc cung cấp, đăng tải thông tin về đấu thầu và lựa chọn nhà thầu trên Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia và Thông tư số 01/2024/TT-BKHĐT ngày 15/02/2024 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư hướng dẫn việc cung cấp, đăng tải thông tin về lựa chọn nhà thầu và mẫu hồ sơ đấu thầu trên hệ thống mạng đấu thầu quốc gia; 4. Quyết định 47/2021/QĐ-KTNN ngày 14/01/2021 của Kiểm toán nhà nước ban hành hướng dẫn kiểm toán dự án đầu tư xây dựng công trình của Kiểm toán nhà nước. Tác giả:  ThS. Đào Trọng Tường, ThS. Trần Việt - Kiểm toán nhà nước chuyên ngành VII (Theo Tạp chí Nghiên cứu Khoa học kiểm toán - số tháng 9/2024)

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG KIỂM TOÁN VIỆC QUẢN LÝ, SỬ DỤNG ĐẤT ĐAI DO CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC NẮM GIỮ

Nguyễn Giang Sơn Phó Kiểm toán trưởng KTNN khu vực VII Trong những năm qua, với mục tiêu trở thành công cụ hữu hiệu của Đảng và Nhà nước, góp phần làm minh bạch nền tài chính quốc gia, Kiểm toán nhà nước đã và đang tiếp tục đi sâu vào kiểm toán các lĩnh vực có nhiều rủi ro, được dư luận xã hội và cử tri cả nước quan tâm nhằm góp phần hoàn thiện thể chế, phát hiện và ngăn chặn các sai phạm trong quản lý tài chính, tài sản công, trong đó công tác kiểm toán việc quản lý, sử dụng đất đai do các doanh nghiệp nhà nước nắm giữ luôn được xác định là nhiệm vụ trọng tâm. Từ thực tiễn các hoạt động kiểm toán của Ngành, các quy định của pháp luật, kinh nghiệm quốc tế trong hoạt động kiểm toán, bài viết nhằm đưa ra một số đánh giá công tác kiểm toán việc quản lý, sử dụng đất đai do các doanh nghiệp nhà nước nắm giữ, qua đó chỉ ra kết quả đạt được, những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân để đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng kiểm toán việc quản lý, sử dụng đất đai do các doanh nghiệp nhà nước nắm giữ. Từ khóa: Đất đai, kiểm toán, Kiểm toán nhà nước. Improving the quality of audits on the management and use of land held by state-owned enterprises In recent years, with the goal of becoming an effective tool of the Party and the State, contributing to the transparency of national finance, the State Audit Office of Vietnam has been continuing to delve into auditing areas with high risks, which are of interest to public opinion and voters nationwide, aiming to contribute to perfecting the institution, detecting and preventing violations in the management of public finance and assets, in which auditing the management and use of land held by state-owned enterprises has always been identified as a key task. From the practical audit activities, legal regulations, international experience in audit activities, the article aims to provide some assessments of the audit work on the management and use of land held by state-owned enterprises, thereby pointing out the results achieved, the shortcomings, limitations and causes to propose solutions to improve the quality of audits on the management and use of land held by state-owned enterprises. Keywords: Land, audit, State Audit Office of Vietnam.  1. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng kiểm toán việc quản lý, sử dụng đất đai do các doanh nghiệp nhà nước nắm giữ Quản lý và sử dụng đất đai hiệu quả là nhiệm vụ quan trọng, quyết định đến sự phát triển một cách bền vững của nền kinh tế, đảm bảo mục tiêu ổn định chính trị - xã hội. Do lịch sử để lại và là lực lượng vật chất quan trọng, then chốt của kinh tế nhà nước, có vai trò là công cụ hỗ trợ Nhà nước giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, định hướng, điều tiết, dẫn dắt thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, khắc phục các “khuyết tật” của cơ chế thị trường, thực hiện công bằng xã hội nên các doanh nghiệp nhà nước đã và đang được giao quản lý, sử dụng số lượng diện tích đất rất lớn vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, khu vực kinh tế này vẫn chưa thể hiện tốt vị thế của mình, chưa phát huy được lợi thế về nắm giữ nguồn lực đất đai trong thực hiện sứ mệnh được giao. Kết quả kiểm toán của Kiểm toán nhà nước thời gian qua cho thấy: Hệ thống chính sách, pháp luật về quản lý, sử dụng đất đai và sắp xếp, cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp còn thiếu ổn định, chưa đồng bộ và chậm được sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện, trong đó nhiều nội dung còn bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn và có kẽ hở để các tổ chức và cá nhân liên quan trục lợi, tham nhũng, lãng phí trong quản lý và sử dụng đất đai; việc thực hiện sắp xếp lại, xử lý nhà, đất của các doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ, công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ chậm được triển khai và có nhiều vướng mắc ảnh hưởng đến việc quản lý, sử dụng đất cũng như quá trình cổ phần hóa, thoái vốn của doanh nghiệp. Việc quản lý, sử dụng đất đai của các doanh nghiệp nhà nước còn nhiều hạn chế, sai phạm và chia làm 04 nhóm sai phạm, cụ thể: (1) Về thực hiện thủ tục pháp lý về đất đai: Tình trạng đất hồ sơ pháp lý đất đai không đầy đủ, chưa có quyết định giao đất, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, hợp đồng thuê kéo dài nhiều năm. Sau quá trình sắp xếp, tái cơ cấu, cổ phần hóa, nhiều doanh nghiệp nhà nước chưa thực hiện kê khai, đăng ký cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, ký lại hợp đồng thuê đất phù hợp với tên pháp nhân hiện tại. Nhiều diện tích được Nhà nước giao đất trước thời điểm Luật Đất đai 2013 có hiệu lực thi hành theo hình thức không thu tiền sử dụng đất hoặc được công nhận như đất giao không thu tiền hoặc đã hết thời hạn được giao đất có thu tiền sử dụng đất nhưng chưa làm thủ tục với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền để chuyển sang hình thức thuê đất theo quy định mới. Tại nhiều doanh nghiệp, thông tin trên các tài liệu pháp lý về đất đai không thống nhất nhưng doanh nghiệp chưa rà soát và thực hiện các thủ tục xin gia hạn, điều chỉnh kịp thời theo quy định. Tại nhiều doanh nghiệp, diện tích đất thực tế có chênh lệch với hồ sơ pháp lý nhưng chưa được rà soát, kiểm kê, đo đạc, xác định nguyên nhân chênh lệch làm cơ sở kê khai, đăng ký biến động về đất đai, thực hiện các thủ tục điều chỉnh theo quy định. Nhiều trường hợp doanh nghiệp cổ phần hóa không xây dựng, phê duyệt phương án sử dụng đất khi cổ phần hóa; (2) Về sử dụng đất của doanh nghiệp: Nhiều diện tích đất của doanh nghiệp nhà nước và các đơn vị thành viên không hoặc chậm đưa vào sử dụng, quá thời hạn đầu tư thực hiện dự án hoặc để hoang hóa, lãng phí. Nhiều doanh nghiệp để xảy ra tình trạng đất bị tranh chấp, lấn chiếm kéo dài nhiều năm, chưa giải quyết triệt để. Một số doanh nghiệp sử dụng đất không đúng mục đích sử dụng đất đã được Nhà nước giao, cho thuê.  Một số dự án chuyển đổi nhà xưởng, cơ sở sản xuất sang đất xây dựng nhà ở, văn phòng, trung tâm thương mại của doanh nghiệp nhà nước không xuất phát từ quy hoạch xây dựng hay quy hoạch sử dụng đất đã được duyệt hoặc phương án sử dụng đất khi cổ phần hóa mà ngược lại, hợp thức hóa làm căn cứ để điều chỉnh quy hoạch và cập nhật vào quy hoạch. Một số doanh nghiệp sử dụng đất thuộc các kết cấu hạ tầng đường bộ, đường sắt, hàng không, cảng biển vào hoạt động sản xuất kinh doanh, hợp tác, liên doanh, liên kết nhưng chưa xây dựng và trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt Đề án khai thác tài sản theo quy định. Một số doanh nghiệp nông, lâm nghiệp thực hiện giao khoán đất cho công nhân, hộ dân trên địa bàn còn tồn tại, hạn chế như: giao khoán không đúng đối tượng; không quy định cụ thể về quản lý sản phẩm giao khoán; hồ sơ giao nhận khoán không đầy đủ, hợp đồng giao khoán không chặt chẽ, không thực hiện đo đạc, cắm mốc giới cụ thể khi giao khoán… dẫn đến bị người dân tranh chấp, bị lấn chiếm, tự chuyển nhượng đất của doanh nghiệp; (3) Về thực hiện các giao dịch kinh tế liên quan đến đất đai: Một số doanh nghiệp sản xuất phi nông nghiệp, thương mại, dịch vụ nhận chuyển nhượng đất trồng lúa, đất nông lâm nghiệp, đất làm muối của cá nhân khi chưa được phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Nhiều trường hợp góp vốn thành lập doanh nghiệp hoặc hợp tác, liên doanh kinh doanh bằng quyền sử dụng đất nhưng không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định. Khi xác định giá trị quyền sử dụng đất để chuyển nhượng, góp vốn, cổ phần hóa còn có trường hợp không tính hoặc tính thiếu giá trị quyền sử dụng đất, dẫn đến giá đất xác định thấp hơn giá thị trường; (4) Về thực hiện nghĩa vụ tài chính với Nhà nước liên quan đến đất: Nhiều diện tích đất của doanh nghiệp nhà nước mặc dù đã sử dụng nhiều năm nhưng chưa được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý thu, ký hợp đồng thuê đất điều chỉnh đơn giá thuê đất. Có trường hợp xác định sai căn cứ tính tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, phương pháp xác định giá đất không phù hợp. Nhiều doanh nghiệp thực hiện kê khai tiền thuê đất, thuế sản xuất phi nông nghiệp, tiền sử dụng đất chưa đầy đủ như: áp dụng đơn giá đất để tính tiền sử dụng đất không đúng, tính tiền sử dụng đất không phù hợp với diện tích, thời điểm được giao đất; sử dụng đất được Nhà nước giao không thu tiền sử dụng đất, đất thuộc các kết cấu hạ tầng vào sản xuất kinh doanh nhưng không kê khai, nộp tiền thuê đất; áp dụng chính sách miễn, giảm tiền thuê đất, khấu trừ tiền sử dụng đất không đúng đơn giá, diện tích; xác định thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế trước bạ của hoạt động bất động sản không kịp thời, đầy đủ theo quy định. Có trường hợp được hưởng các ưu đãi đầu tư, trong đó có các ưu đãi về miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, tiền thuê đất nhưng cho thuê lại đất, góp vốn bằng quyền thuê đất không mục đích sử dụng đất theo giấy chứng nhận đầu tư, hợp đồng thuê đất. 2. Định hướng và giải pháp nâng cao chất lượng kiểm toán việc quản lý, sử dụng đất đai do các doanh nghiệp nhà nước nắm giữ 2.1. Định hướng Việc tiếp tục đẩy mạnh kiểm toán việc quản lý, sử dụng các nguồn lực của doanh nghiệp nhà nước, trong đó nguồn lực đất đai là một nhiệm vụ trọng tâm, có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với Kiểm toán nhà nước. Việc kiểm toán về quản lý, sử dụng đất đai do doanh nghiệp nhà nước nắm giữ cần đáp ứng được các yêu cầu sau: Một là, Kiểm toán nhà nước cần bám sát chủ trương, đường lối của Đảng về quản lý, sử dụng đất đai. Trong giai đoạn từ năm 2017 trở lại đây, Đảng ta đã ban hành nhiều chủ trương, đường lối về quản lý, sử dụng đất đai, trong đó có các nội dung về quản lý, sử dụng đất đai của doanh nghiệp nhà nước, điển hình là Nghị quyết số 12-NQ/TW ngày 03/6/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới, nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước và các chủ trương của Đảng về doanh nghiệp nhà nước; Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII ngày 01/02/2021 của Đảng Cộng sản Việt Nam; Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 16/6/2022 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII về tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý và sử dụng đất, tạo động lực đưa nước ta trở thành nước phát triển có thu nhập cao. Hai là, đảm bảo tính minh bạch, trách nhiệm giải trình và quản lý, quản trị tốt của các cơ quan, tổ chức, đơn vị được giao quyền quản lý, sử dụng đất đai, tài nguyên. Trên cơ sở đó kiến nghị xử lý trách nhiệm tập thể, cá nhân liên quan, kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền kịp thời ngăn chặn và xử lý các hành vi lợi dụng, vi phạm pháp luật, tham nhũng, tiêu cực, góp phần phòng ngừa, loại bỏ nguy cơ và hành vi vi phạm pháp luật trong quản lý, sử dụng đất đai. Đồng thời,  nâng cao năng lực quản lý nhà nước về đất đai,  đáp ứng yêu cầu, cũng như việc thực thi nghiêm các chính sách, pháp luật đất đai, không để các cá nhân, tổ chức lợi dụng, tham nhũng, trục lợi, gây thất thoát, lãng phí trong quản lý và sử dụng đất đai. Ba là, thúc đẩy hệ thống quản lý, quản trị tài chính, tài sản quốc gia nói chung và đất đai, tài nguyên nói riêng của cả nước cũng như trong từng cơ quan, đơn vị, tổ chức một cách hợp lý và lành mạnh. Thông qua hoạt động kiểm tra hệ thống quản lý, quản trị tài chính, tài sản công, Kiểm toán nhà nước cung cấp những thông tin, báo cáo hợp lý, đáng tin cậy cho đơn vị được kiểm toán, các cơ quan quản lý nhà nước, công chúng nhằm đảm bảo tính minh bạch, sự toàn vẹn của hệ thống tài chính, tài sản công - trong đó có đất đai, từ đó nâng cao nhận thức về những rủi ro liên quan đến việc lợi dụng, lạm dụng quyền lực, tham ô, lãng phí, không tuân thủ pháp luật trong quản lý đất đai, việc sử dụng kém hiệu quả các nguồn lực đất đai quốc gia. Bốn là, kịp thời phát hiện những hạn chế, bất cập, chồng chéo, thiếu thống nhất, thiếu đồng bộ những kẽ hở, lỗ hổng của cơ chế, chính sách, pháp luật về đất đai, là nguyên nhân gây tình trạng quản lý lỏng lẻo, bị lợi dụng mang lại lợi ích cho cá nhân, lợi ích nhóm, tham nhũng, trục lợi, gây thất thoát, lãng phí, kém hiệu quả trong quản lý và sử dụng đất đai. Qua đó kiến nghị kịp thời khắc phục những “lỗ hổng” về cơ chế, chính sách, tăng cường kỷ cương, kỷ luật trong quản lý, quản trị và sử dụng đất đai; kiến nghị các giải pháp để hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật nhà nước góp phần phòng ngừa, loại bỏ nguy cơ lợi dụng quyền lực, quan liêu, tham nhũng, tiêu cực và các hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực đất đai, tài nguyên. 2.2. Giải pháp nâng cao chất lượng kiểm toán việc quản lý, sử dụng đất đai do các doanh nghiệp nhà nước nắm giữ 2.2.1. Các giải pháp đối với Kiểm toán nhà nước (1) Hoàn thiện và áp dụng chính sách, văn bản hướng dẫn chuyên môn nghiệp vụ kiểm toán việc quản lý, sử dụng đất đai trong lĩnh vực doanh nghiệp Cho đến nay, Kiểm toán nhà nước chưa có hướng dẫn chuyên môn về mục tiêu, nội dung, phương pháp, kỹ thuật kiểm toán việc quản lý, sử dụng đất đai trong lĩnh vực doanh nghiệp. Hướng dẫn kiểm toán doanh nghiệp hiện nay chưa đề cập đến nội dung kiểm toán công tác quản lý, sử dụng đất đai. Do đó, để nâng cao chất lượng kiểm toán, Kiểm toán nhà nước cần nghiên cứu, bổ sung hướng dẫn chuyên môn về mục tiêu, nội dung, phương pháp, kỹ thuật kiểm toán việc quản lý, sử dụng đất đai trong lĩnh vực doanh nghiệp. Bài viết đề xuất việc hướng dẫn nội dung kiểm toán chủ yếu đối với công tác quản lý, sử dụng đất đai do các doanh nghiệp nhà nước nắm giữ gồm các nội dung, cụ thể: - Kiểm toán việc thực hiện thủ tục pháp lý về đất đai với Nhà nước. - Kiểm toán việc sử dụng đất của doanh nghiệp. - Kiểm toán việc thực hiện các giao dịch kinh tế liên quan đến đất đai. - Kiểm toán việc thực hiện nghĩa vụ tài chính với Nhà nước liên quan đến đất đai. (2) Hoàn thiện công tác tổ chức thực hiện kiểm toán - Đổi mới cách thức tổ chức kiểm toán theo hướng tăng cường các cuộc kiểm toán chuyên đề trong kế hoạch kiểm toán trung hạn và hằng năm nhằm đi sâu đánh giá một số khía cạnh, vấn đề trọng yếu trong quản lý, sử dụng đất đai của doanh nghiệp nhà nước. - Chi tiết hóa nội dung kiểm toán đất đai trong kế hoạch kiểm toán tổng quát của đoàn kiểm toán và kế hoạch kiểm toán chi tiết của các tổ kiểm toán để bảo đảm tính phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể cuộc kiểm toán. - Tăng cường đánh giá rủi ro có sai sót trọng yếu trong công tác lập kế hoạch kiểm toán và thực hiện kiểm toán. - Thực hiện đa dạng, nhiều phương pháp, thủ tục thu thập bằng chứng kiểm toán. - Sử dụng cộng tác viên là chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý trong nước và ngoài nước trong lĩnh vực địa chính, đất đai. - Sử dụng công nghệ viễn thám trong công tác quản lý, sử dụng đất. - Thực hiện nghiêm túc, chặt chẽ công tác kiểm soát chất lượng kiểm toán trong tất cả các khâu, bước của quy trình kiểm toán. (3) Hoàn thiện công tác đào tạo, bố trí nhân sự đoàn kiểm toán Các giải pháp đã nêu ở trên sẽ không thể được thực thi hiệu quả nếu thiếu đi yếu tố con người. Do đó, giải pháp mang tính chất “kỹ thuật” cần song hành với giải pháp về mặt “nhân lực”. Nâng cao chất lượng, trình độ của đội ngũ Kiểm toán viên nhà nước vẫn luôn là nền tảng cho mọi giải pháp để nâng cao hiệu quả kiểm toán, nhất là với lĩnh vực kiểm toán quản lý, sử dụng đất đai vốn rất đặc thù và có tính phức tạp cao. Một số giải pháp về mặt nhân lực cụ thể: - Nghiên cứu, bổ sung và cập nhật nội dung kiểm toán công tác quản lý, sử dụng đất trong chương trình đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng kiểm toán doanh nghiệp. Hiện nay, các tài liệu bồi dưỡng kỹ năng kiểm toán doanh nghiệp đang tập trung đào tạo các nội dung kiểm toán báo cáo tài chính. Nội dung kiểm toán đất đai trong các tài liệu đào tạo lĩnh vực khác lại chủ yếu tiếp cận từ giác độ kiểm toán tại các cơ quản lý nhà nước. Do đó, việc xây dựng tài liệu đào tạo cho Kiểm toán viên nhà nước về nội dung kiểm toán đất đai gắn liền với lĩnh vực doanh nghiệp là hết sức cần thiết và nên tập trung vào một số nội dung sau: Thứ nhất, Kiểm toán nhà nước nên cân nhắc, nghiên cứu việc phối hợp, hợp tác, thuê ngoài các chuyên gia, giảng viên có uy tín trong lĩnh vực đất đai đến từ các bộ ngành, cơ sở đào tạo trong nước để biên soạn tài liệu và tổ chức giảng dạy. Việc biên soạn tài liệu giảng dạy hiện nay của Kiểm toán nhà nước hầu như dựa trên kinh nghiệm, trí tuệ của đội ngũ công chức, người lao động của các đơn vị trực thuộc Kiểm toán nhà nước. Những tài liệu giảng dạy do Kiểm toán nhà nước biên soạn trong thời gian qua đã đạt được những kết quả rất đáng kể, có mức độ bao phủ rộng về đề tài, đảm bảo phong phú về nội dung và có tính chuyên sâu trong kiến thức. Tuy nhiên, khi xét đến chủ đề quản lý, sử dụng đất đai trong doanh nghiệp nhà nước là một chủ đề có phạm vi rất rộng và phức tạp thì những tài liệu được xây dựng nội bộ sẽ không tránh khỏi những hạn chế mang tính cố hữu, chủ quan do xuất phát từ góc nhìn của đơn vị đi kiểm tra, kiểm toán và có thể chưa cập nhật kịp thời những vấn đề thời sự phát sinh trong thực tiễn quản lý, điều hành của doanh nghiệp. Thứ hai, tài liệu đào tạo cần hạn chế việc chỉ trích dẫn và liệt kê lại các quy định sẵn có trong các văn bản quy phạm pháp luật do các quy định này thường xuyên được sửa đổi, bổ sung, thay thế; đồng thời tăng cường số lượng ví dụ minh họa trong hệ thống bài tập và câu hỏi ôn tập để Kiểm toán viên nhà nước có điều kiện thực hành, kiểm tra và vận dụng kiến thức của cá nhân. Thông qua các ví dụ cụ thể trong giáo trình và trong hệ thống câu hỏi ôn tập, Kiểm toán viên nhà nước có thể bước đầu vận dụng, áp dụng các quy định của hệ thống văn bản pháp luật vào trong những tình huống sát hơn với thực tế. Thứ ba, nội dung bồi dưỡng đào tạo cần phù hợp với nền tảng chuyên môn của từng đối tượng học viên. Như đã đề cập, một tỷ lệ đáng kể các Kiểm toán viên nhà nước thực hiện kiểm toán đối tượng doanh nghiệp có xuất phát điểm chuyên ngành đào tạo tại cấp bậc đại học và sau đại học chủ yếu về kinh tế và chưa được đào tạo cơ bản về công tác quản lý, sử dụng đất. Theo đó, chương trình đào tạo cần được bố trí thành nhiều cấp độ với nội dung nâng cao dần để Kiểm toán viên nhà nước có thể hiểu và từng bước có cách vận dụng, áp dụng thủ tục kiểm toán phù hợp. - Tăng cường hoạt động tự đào tạo nội bộ, tọa đàm chia sẻ, trao đổi kinh nghiệm trong và ngoài ngành về công tác quản lý, sử dụng đất đai tại các doanh nghiệp nhà nước. Nhằm bổ sung, hỗ trợ cho công tác giảng dạy, bồi dưỡng mang tính chính tắc thì việc tổ chức các hoạt động tự đào tạo nội bộ, chia sẻ, trao đổi kinh nghiệm là rất cần thiết và hữu ích. Các hoạt động này có thể được tổ chức dưới các hình thức đa dạng, phong phú, phù hợp tùy điều kiện về không gian, thời gian của các đơn vị thuộc Kiểm toán nhà nước, chẳng hạn như: tự đào tạo nội bộ trong các đơn vị chủ trì kiểm toán; tọa đàm chia sẻ, trao đổi kinh nghiệm với các đơn vị trong và ngoài ngành. - Bố trí hài hòa giữa Kiểm toán viên nhà nước có kinh nghiệm với Kiểm toán viên nhà nước chưa có kinh nghiệm kiểm toán quản lý, sử dụng đất đai trong các cuộc kiểm toán doanh nghiệp nhà nước. (4) Ứng dụng công nghệ thông tin trong thực hiện kiểm toán Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, tạo nền tảng cho quá trình chuyển đổi phương pháp kiểm toán truyền thống sang phương pháp kiểm toán hiện đại dựa trên dữ liệu số là một trong những nội dung quan trọng trong Chiến lược phát triển Kiểm toán nhà nước đến năm 2030 được Ủy ban Thường vụ Quốc hội phê duyệt tại Nghị quyết số 999/2020/UBTVQH14 ngày 16/9/2020. Việc tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động kiểm toán nói chung, kiểm toán quản lý, sử dụng đất do doanh nghiệp nhà nước nắm giữ nói riêng sẽ giúp Kiểm toán nhà nước thích ứng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4, góp phần đưa Kiểm toán nhà nước tham gia tích cực vào sự phát triển của nền kinh tế số. Mặt khác, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong quá trình kiểm toán sẽ giúp Kiểm toán viên nhà nước, các tổ kiểm toán, đoàn kiểm toán thu thập đầy đủ hơn các bằng chứng kiểm toán thích hợp, đảm bảo tính khách quan, đúng đắn, trung thực của số liệu được kiểm toán, rút ngắn thời gian kiểm toán, giảm thiểu rủi ro phát sinh. Một số giải pháp tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin vào kiểm toán quản lý, sử dụng đất do doanh nghiệp nhà nước nắm giữ có thể triển khai là: (1) Xây dựng và tích hợp dữ liệu về đất đai của các doanh nghiệp nhà nước vào quá trình phát triển Hệ thống hạ tầng dữ liệu của Kiểm toán nhà nước; (2) Liên thông, kết nối với các nguồn dữ liệu bên ngoài về quản lý, sử dụng đất; (3) Nghiên cứu ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo và dữ liệu lớn trong kiểm toán quản lý, sử dụng đất đai. (5) Các giải pháp khác - Tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác đôn đốc, theo dõi tình hình thực hiện kiến nghị kiểm toán liên quan đến quản lý, sử dụng đất đai của doanh nghiệp nhà nước thông qua việc: + Thiết lập kênh thông tin liên lạc thường xuyên với các doanh nghiệp nhà nước được kiểm toán, cơ quan đại diện vốn nhà nước tại doanh nghiệp và các bộ, ngành, trong đó có nội dung theo dõi, đôn đốc tình hình thực hiện kiến nghị kiểm toán. + Thực hiện nghiêm quy trình theo dõi, đôn đốc việc thực hiện kiến nghị kiểm toán; tổng hợp và tổ chức thảo luận, tọa đàm trao đổi định kỳ giữa các cơ quan đơn vị liên quan về vấn đề còn khó khăn, vướng mắc trong quá trình theo dõi thực hiện kiến nghị nhằm đề ra biện pháp kịp thời, giảm thiểu yếu tố chủ quan ảnh hưởng đến hiệu quả công tác theo dõi tình hình thực hiện kiến nghị kiểm toán. - Đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, tọa đàm, chia sẻ kinh nghiệm làm cơ sở định hướng hoàn thiện công tác tổ chức kiểm toán việc quản lý, sử dụng đất đai, trong đó tập trung vào những vấn đề mới phát sinh, tiềm ẩn nguy cơ tham nhũng, lãng phí và các kẽ hở, lỗ hổng của cơ chế, chính sách, pháp luật nhằm tham gia sâu hơn vào việc xây dựng chính sách, pháp luật cũng như kiến nghị giải pháp hoàn thiện bất cập của chế độ chính sách về đất đai. Tăng cường ứng dụng kết quả nghiên cứu, tọa đàm, chia sẻ kinh nghiệm vào thực tiễn để nâng cao chất lượng công tác kế hoạch và tổ chức thực hiện các cuộc kiểm toán về đất đai. 2.2.2. Các giải pháp bên ngoài ngành (1) Công tác phối hợp với các cơ quan quản lý nhà nước liên quan đến quản lý, sử dụng đất đai Kiểm toán nhà nước cần tăng cường mối quan hệ phối hợp công tác với các cơ quan quản lý nhà nước khác thông qua các hoạt động: kết nối, chia sẻ dữ liệu về đất đai, quy hoạch, việc thực hiện các nghĩa vụ đối với ngân sách nhà nước; hỗ trợ, tham vấn chuyên môn trong quá trình kiểm toán; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, tập huấn, phổ biến chính sách, pháp luật, chia sẻ kinh nghiệm quản lý; tổ chức theo dõi thực hiện kiến nghị kiểm toán; tham gia hoàn thiện cơ chế, chính sách về đất đai… để nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả kiểm toán. Việc tăng cường phối hợp công tác không chỉ đơn thuần mang lại lợi ích cho riêng Kiểm toán nhà nước mà còn góp phần đảm bảo tính minh bạch, trách nhiệm giải trình, nâng cao năng lực quản lý nhà nước về đất đai của từng cơ quan, đơn vị, tổ chức. (2) Công tác phối hợp với các cơ quan thanh tra, kiểm tra Kiểm toán nhà nước đã xây dựng quy chế phối hợp công tác và tổ chức làm việc với Thanh tra Chính phủ, các địa phương khi xây dựng kế hoạch kiểm toán hằng năm nhưng do phạm vi, đối tượng thanh tra, kiểm tra, kiểm toán rộng, trong đó nhiều nội dung, đối tượng chưa thể xác định cụ thể khi xây dựng kế hoạch kiểm toán năm nên thời gian qua, việc xử lý trùng lắp, chồng chéo cũng còn những hạn chế nhất định. Do đó, giải pháp tiềm năng đem lại lợi ích cho các bên có thể được cân nhắc, xem xét là xây dựng cơ sở dữ liệu chung giữa các cơ quan thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, trong đó có nội dung thanh tra, kiểm tra, kiểm toán về quản lý, sử dụng đất đai. Cơ sở dữ liệu có thể bao gồm các (nhóm) thông tin cơ bản như: Tên đối tượng thanh kiểm tra, niên độ được kiểm tra, các tồn tại chính phát hiện qua thanh tra, kiểm tra. Ở cấp độ cao hơn, cơ sở dữ liệu dùng chung có thể lưu giữ kết quả thanh kiểm tra với những đối tượng chi tiết như từng đơn vị thành viên, từng vị trí đất qua từng thời kỳ. Việc xây dựng cơ sở dữ liệu dùng chung góp phần mang lại các lợi ích: - Giảm thiểu chồng chéo trong việc lập kế hoạch thanh tra, kiểm toán giữa các đơn vị, đảm bảo việc thanh tra, kiểm tra, kiểm toán không ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp theo tinh thần Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII. - Các cơ quan có thể được sử dụng kết quả thanh tra, kiểm tra, kiểm toán của cơ quan khác như một nguồn thông tin hữu ích để tham khảo, bổ trợ cho việc thu thập bằng chứng cũng như có góc nhìn đánh giá mang tính khách quan khi đưa ra đánh giá, kết luận về cùng một vấn đề. (3) Công tác phối hợp với các doanh nghiệp nhà nước nắm giữ đất đai Với sự định hướng của Chính phủ, hoạt động chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ tại hầu hết doanh nghiệp nhà nước, điển hình như tại VIETTEL, EVN, PVN, VNPT... Công nghệ số đã và đang trở thành cơ hội, công cụ để các doanh nghiệp thay đổi căn bản cách thức vận hành, mô hình kinh doanh và cung cấp các giá trị mới cho khách hàng. Hiện nay, tại nhiều doanh nghiệp, hầu hết công việc quản trị, điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh đều đã được thực hiện trong môi trường số và sự kết nối, liên thông với hệ thống công nghệ thông tin của các cơ quan, tổ chức bên ngoài như thuế, bảo hiểm xã hội, ngân hàng… Các thông tin tài chính, tài sản, giao dịch, sản xuất kinh doanh... của doanh nghiệp đang từng bước được tạo lập, lưu trữ bằng dữ liệu điện tử, thay cho dữ liệu giấy tờ, tài liệu. Đây vừa là cơ hội, vừa là thách thức để Kiểm toán nhà nước phải thay đổi và thích ứng để thực hiện nhiệm vụ. Vì vậy, thời gian tới, Kiểm toán nhà nước cần tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa việc kết nối, liên thông dữ liệu với các doanh nghiệp nhà nước để chia sẻ, kết nối các thông tin về tài chính, đất đai của doanh nghiệp, cũng như các dữ liệu về kết quả kiểm toán, tình hình thực hiện kiến nghị kiểm toán.   TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013;  2. Các Nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương Đảng các khóa;  3. Chiến lược phát triển Kiểm toán nhà nước đến năm 2030 được ban hành kèm theo Nghị quyết số 999/2020/UBTVQH14 ngày 16/9/2020 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;  4. Luật Kiểm toán nhà nước số 81/2015/QH13 ngày 24/6/2015;  5. Luật Doanh nghiệp qua các thời kỳ;  6. Luật Đất đai số 45/2013/QH13 ngày 29/11/2013; số 31/2024/QH15 ngày 18/01/2024;  7. Báo cáo về hoạt động đầu tư, quản lý, sử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp của Chính phủ báo cáo kỳ họp 6, Quốc hội khóa XV;  8. Hệ thống Chuẩn mực kiểm toán của Kiểm toán nhà nước;  9. Đề cương kiểm toán quản lý đất đai trong, sau cổ phần hóa giai đoạn 2011-2017 tại Quyết số 2051/QĐ-KTNN ngày 18/10/2018;  10. Hướng dẫn kiểm toán doanh nghiệp ban hành kèm theo Quyết định số 244/QĐ-KTNN ngày 08/3/2021 của Tổng Kiểm toán nhà nước;  11. Hướng dẫn và thực hiện kiểm toán chuyên đề “Công tác quản lý nhà nước về đất đai giai đoạn 2017-2021 tại một số địa phương” và “Việc quản lý, sử dụng đất đai trong và sau quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước giai đoạn 2011-2017”;  12. Một số báo cáo kiểm toán liên quan;  13. Quản lý đất đai ở Việt Nam 1980-2020, Nguyễn Đình Bồng (2012), Nhà xuất bản chính trị Quốc gia, Hà Nội.

ĐÁNH GIÁ SỰ TÁC ĐỘNG CỦA SỬ DỤNG HÓA ĐƠN ĐIỆN TỬ ĐẾN CÔNG TÁC KẾ TOÁN TẠI CÁC DOANH NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH SƠN LA

TS. Vũ Thị Sen, Khoa Kinh tế - Trường Đại học Tây Bắc Sinh viên Lò Thị Xuân, K63ĐHKT- Khoa Kinh tế - Trường Đại học Tây Bắc     Bài viết sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính kết hợp với phương pháp nghiên cứu định lượng thông qua phỏng vấn sâu và khảo sát 71 người trong ban giám đốc và các kế toán doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Sơn La về việc sử dụng hóa đơn điện tử. Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra tác động tích cực của sử dụng hóa đơn điện tử trong công tác kế toán tại các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Sơn La sau 2 năm triển khai thực hiện rộng rãi theo quy định. Đồng thời, qua đó cũng cho thấy một số khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng hóa đơn điện tử vào công tác kế toán của doanh nghiệp trên địa bàn. Từ đó, bài viết đề xuất một số giải pháp, khuyến nghị xuất phát từ thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng hóa đơn điện tử trong công tác kế toán tại các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Sơn La. ​ Từ khóa: Hóa đơn, hóa đơn điện tử, công tác kế toán, công nghệ thông tin. ​ Evaluating the effects of e-invoice implementation on accounting practices in Son La businesses ​ This study employs a mixed-methods approach, combining qualitative and quantitative research through in-depth interviews and a survey of 71 executives and accountants in Son La province to investigate the impact of electronic invoicing on accounting practices. The findings indicate positive effects of electronic invoicing on accounting work in Son La enterprises after two years of widespread implementation, while also highlighting some challenges and limitations. Based on the empirical findings, the study proposes several solutions and recommendations to enhance the effectiveness of electronic invoicing in accounting. ​ Keywords: Invoice, electronic invoice, accounting work, information technology.   1. Giới thiệu ​ Kế toán là một trong những hoạt động chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của công nghệ thông tin. Theo Phan Lê Trang & cộng sự (2022), ứng dụng công nghệ thông tin trong kế toán nhằm: Nâng cao năng suất lao động, cải thiện chất lượng công việc, nâng cao hiệu quả kinh doanh và tính hữu hiệu trong công tác kế toán. Từ đó, đã làm thay đổi vai trò của kế toán trong thu thập, xử lý, phân tích thông tin kế toán. Trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0, tổ chức công tác kế toán trong doanh nghiệp từng bước có những chuyển biến tích cực. Hiện nay, việc ứng dụng hoá đơn điện tử trong doanh nghiệp đã trở lên quen thuộc trong giao dịch mua, bán hàng hóa dưới sự hỗ trợ của máy tính, phần mềm từ đó thúc đẩy việc ứng dụng công nghệ thông tin trong kế toán. ​ Theo Nghị định số 123/2020/NĐ-CP: Hóa đơn điện tử là hóa đơn được thể hiện ở dạng dữ liệu điện tử do tổ chức, cá nhân bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ lập, ghi nhận thông tin bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ, ký số, ký điện tử theo quy định bằng phương tiện điện tử, bao gồm cả trường hợp hóa đơn được khởi tạo từ máy tính tiền có kết nối chuyển dữ liệu điện tử với cơ quan thuế. Ngày 17/9/2021, Bộ Tài chính đã chính thức ban hành Thông tư 78/2021/TT-BTC quy định những nội dung mới, quan trọng về hóa đơn điện tử như: Lộ trình triển khai áp dụng hóa đơn điện tử, ký hiệu mẫu hóa đơn điện tử, xử lý hóa đơn điện tử sai sót... Theo thông tư này, các doanh nghiệp bắt buộc sử dụng hóa đơn điện tử từ ngày 01/7/2022. ​ Hóa đơn điện tử mang lại tác động tích cực tới công tác kế toán của doanh nghiệp nói riêng và hoạt động tổng thể của doanh nghiệp nói chung. Việc triển khai hóa đơn điện tử đã mang lại hiệu quả thiết thực về thời gian và tiết kiệm chi phí cho doanh nghiệp; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý kinh doanh, hạch toán kế toán nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh, chất lượng dịch vụ và tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Qua đó, ban quản trị có thể theo dõi thường xuyên tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Từ đó, đưa ra những quyết định tối ưu cho doanh nghiệp. Việc sử dụng hóa đơn điện tử trước hết đảm bảo việc luân chuyển hoá đơn trở nên thuận tiện và an toàn, tiết kiệm thời gian phát hành, đơn giản hóa việc quản lý tìm kiếm hóa đơn phù hợp với công tác kế toán, đối chiếu số liệu và các tranh chấp liên quan đến hoá đơn. ​ Hóa đơn điện tử giúp nâng cao hiệu quả công tác kế toán của doanh nghiệp. Ngày càng nhiều doanh nghiệp nhận ra những lợi ích ưu việt mà hóa đơn điện tử mang lại, đặc biệt là trong công tác kế toán doanh nghiệp. Việc sử dụng hóa đơn điện tử giảm thiểu những hạn chế, bất cập của hóa đơn giấy truyền thống, đồng thời hiện đại hóa quy trình hoạt động của bộ phận kế toán.Theo nghiên cứu của Phạm Hữu Trị (2019), việc sử dụng hóa đơn điện tử trong doanh nghiệp giúp tiết kiệm thời gian, chi phí, hữu ích, thuận tiện, an toàn, đem lại hiệu quả quản lý. Phạm Thị Thu Huyền (2022) cũng khẳng định việc sử dụng hóa đơn điện tử sẽ giúp doanh nghiệp tiết kiệm đáng kể chi phí hoạt động của doanh nghiệp, cụ thể là chi phí in ấn và lưu trữ. Theo Nguyễn Thị Thu Trang (2018), thì việc sử dụng hóa đơn điện tử giúp doanh nghiệp tiết kiệm được thời gian (giảm tới 70% các bước quy trình phát hành và 90% các tranh chấp liên quan đến hóa đơn, rút ngắn tới 99% thời gian thanh toán, quản lý hóa đơn, tiết kiệm 80% chi phí cho mỗi hóa đơn). ​ Hóa đơn điện tử mang lại lợi ích cho hoạt động tổng thể của doanh nghiệp. Không chỉ mang lại lợi ích cho công tác kế toán, hóa đơn điện tử còn tác động tích cực tới hiệu quả hoạt động tổng thể của doanh nghiệp. Việc sử dụng hóa đơn điện tử giúp doanh nghiệp tiết kiệm chi phí phát hành, vận chuyển, bảo quản, lưu trữ hóa đơn, giảm thiểu thủ tục hành chính cũng như đảm bảo độ chính xác và an toàn cao, tránh tình trạng hóa đơn bị làm giả. ​ Tỉnh Sơn La nằm ở khu vực Tây Bắc, có nền kinh tế đa dạng với nhiều loại hình doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực như nông nghiệp, chế biến thực phẩm, du lịch và thương mại, chế tạo máy, dịch vụ... Nông nghiệp là lĩnh vực chủ lực, nổi tiếng với các sản phẩm nông sản như chè, cà phê, và các loại trái cây. Nhiều doanh nghiệp đã đầu tư vào sản xuất và chế biến nông sản, giúp nâng cao giá trị kinh tế, chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và vừa, nhiều doanh nghiệp có quy mô nhỏ, tập trung vào sản xuất và chế biến nông sản. Theo thống kê trên cổng thông tin điện tử tỉnh Sơn La đến ngày 10/11/2023 tổng số doanh nghiệp đăng ký hoạt động trên địa bàn tỉnh là 3.444 doanh nghiệp, với tổng vốn đăng ký là 53.804 tỷ đồng. ​ Để hoạt động của các doanh nghiệp trong địa bàn Tỉnh ngày càng hiệu quả, công tác kế toán thực hiện tốt vai trò, nhiệm vụ của mình trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì việc tìm hiểu và xử lý các tình huống, khó khăn, ảnh hưởng của việc áp dụng hóa đơn điện tử vào công tác kế toán tại các doanh nghiệp là hết sức cần thiết. ​ Bài viết sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính kết hợp với phương pháp nghiên cứu định lượng thông qua phỏng vấn sâu và khảo sát các đối tượng liên quan đến phát hành và tiếp nhận hóa đơn điện tử trong doanh nghiệp gồm: Ban giám đốc, kế toán trong doanh nghiệp nhằm xin ý kiến phản hồi về hiệu quả sau hơn 2 năm triển khai sử dụng rộng rãi hóa đơn điện tử trên địa bàn tỉnh Sơn La. Kết quả thu được này sử dụng cho việc phân tích, đánh giá thực trạng ứng dụng hóa đơn điện tử trong công tác kế toán tại các doanh nghiệp trên địa bàn. Đồng thời, nghiên cứu thu thập các ý kiến tư vấn, góp ý làm cơ sở đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả ứng dụng hóa đơn điện tử và ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác kế toán tại các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Sơn La. ​ 2. Hiệu quả ứng dụng hóa đơn điện tử trong công tác kế toán tại các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Sơn La ​ Bài viết dựa trên kết quả nghiên cứu, đánh giá của 71 phiếu khảo sát, trong đó có 4,2% đối tượng trả lời là Giám đốc, Phó Giám đốc doanh nghiệp, 58% là kế toán trưởng và phụ trách kế toán, 38% là kế toán viên trong các loại hình doanh nghiệp. Đối tượng lựa chọn khảo sát được chọn ngẫu nhiên, đảm bảo việc thu thập ý kiến khách quan, trung thực của doanh nghiệp về vấn đề sử dụng hóa đơn điện tử trong công tác kế toán. Đối tượng trả lời khảo sát có 35% thuộc loại hình doanh nghiệp thương mại và dịch vụ; 48% thuộc lĩnh vực xây dựng và sản xuất công nghiệp; 17% doanh nghiệp thuộc lĩnh vực nông nghiệp. ​ Tổng số phiếu phát ra đối với các đối tượng trả lời phiếu trên khoảng hơn 100 doanh nghiệp, gửi phiếu thông qua đường link bảng hỏi đến khoảng 350 người. Kết quả thu về 71 phiếu trả lời, các phiếu đảm bảo yêu cầu sử dụng là 71 phiếu, chiếm 21%. ​ Thời gian thực hiện khảo sát cho nghiên cứu từ tháng 7/2024 đến tháng 9/2024. ​ Bài viết đã sử dụng công cụ thống kê mô tả và biểu đồ để phân tích kết quả đánh giá hiệu quả sử dụng hóa đơn điện tử trong công tác kế toán tại các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Sơn La như sau: ​ Về đánh giá mức độ ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác kế toán tại doanh nghiệp ​ Từ kết quả thống kê khảo sát cho thấy có 96% doanh nghiệp được khảo sát đã ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác kế toán (trong đó có 75% doanh nghiệp ứng dụng một phần công nghệ thông tin vào công tác kế toán, 21% doanh nghiệp biết sử dụng công nghệ thông minh, trí tuệ nhân tạo vào công tác kế toán doanh nghiệp) và có 100% doanh nghiệp đã sử dụng hóa đơn điện tử vào công tác kế toán tại doanh nghiệp. ​ Các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Sơn La đánh giá về lợi ích của sử dụng hóa đơn điện tử: 85% doanh nghiệp của tỉnh Sơn La đánh giá hóa đơn điện tử mang lại tất cả các lợi ích như: Tiết kiệm chi phí, dễ quản lý, tiết kiệm thời gian, hữu ích, thuận tiện; 15% doanh nghiệp đánh giá hóa đơn điện tử mang lại một hoặc một số lợi ích cho doanh nghiệp như trên. Ngoài ra, gần 90% người được khảo sát đánh giá hóa đơn điện tử ứng dụng trong công tác kế toán phù hợp với các đặc điểm doanh nghiệp như: Phù hợp với mọi quy mô và đặc điểm của bộ máy kế toán; phù hợp với mọi yêu cầu xử lý và cung cấp thông tin, yêu cầu tích hợp dữ liệu và lập báo cáo tài chính; phù hợp với mọi yêu cầu xử lý và cung cấp thông tin, yêu cầu tích hợp dữ liệu lên sổ và lập báo cáo tài chính. ​ Sơn La là một tỉnh miền núi, các doanh nghiệp đóng trên địa bàn tỉnh có điều kiện tiếp nhận công nghệ thông tin còn hạn chế nhất định so với các thành phố lớn hoặc các tỉnh đồng bằng. Tuy nhiên, với kết quả khảo sát thu được trên đây cho thấy công tác truyền thông và triển khai đồng bộ, mạnh mẽ ứng dụng hóa đơn điện tử cho các doanh nghiệp và tổ chức trên địa bàn tỉnh đã thực hiện một cách sâu rộng. Các doanh nghiệp đã nhận thức và ứng dụng bước đầu cho thấy hiệu quả, doanh nghiệp đã thấy rõ những lợi ích và sự phù hợp của sử dụng hóa đơn điện tử trong giao dịch và hạch toán kế toán của doanh nghiệp. ​ Về đánh giá tác động của hóa đơn điện tử đến năng suất, chất lượng lao động và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp     Biểu đồ 1: Đánh giá hiệu quả của ứng dụng hóa đơn điện tử đến năng suất, chất lượng lao động và hiệu quả kinh doanh   Kết quả khảo sát thu được theo Biểu đồ 1 cho thấy 83,1% ban giám đốc và kế toán doanh nghiệp đều nhận thức và thấy rõ hiệu quả ứng dụng hóa đơn điện tử đã có tác động lên mọi mặt hiệu quả của doanh nghiệp như: Giúp doanh nghiệp nâng cao năng suất lao động, cải thiện chất lượng công tác kế toán, nâng cao hiệu quả kinh doanh và hóa đơn điện tử là công cụ hữu hiệu, dễ sử dụng trong công tác kế toán. 17% doanh nghiệp nhận thức và đánh giá hiệu quả của hóa đơn điện tử đạt được một trong các khía cạnh hiệu quả trên đây. Điều này cho thấy sự đánh giá cao của ban giám đốc và kế toán các doanh nghiệp về hiệu quả của hóa đơn điện tử mang lại khi được đưa vào sử dụng trong thời gian qua. ​ Đánh giá về yếu tố bên trong của doanh nghiệp ảnh hưởng đến chất lượng ứng dụng hóa đơn điện tử trong công tác kế toán     Biểu đồ 2: Yếu tố bên trong của doanh nghiệp ảnh hưởng đến chất lượng ứng dụng hóa đơn điện tử trong công tác kế toán   Kết quả nghiên cứu trên cho thấy cho thấy 80,3% ban giám đốc và các kế toán đánh giá có 4 yếu tố bên trong ảnh hưởng đến chất lượng ứng dụng hóa đơn điện tử trong doanh nghiệp là: Trình độ của nhân viên đáp ứng việc ứng dụng hóa đơn điện tử trong công tác kế toán; trang thiết bị, cơ sở hạ tầng của doanh nghiệp đáp ứng việc ứng dụng hóa đơn điện tử trong công tác kế toán; quy mô, địa vị, chính sách, chế độ kế toán mà doanh nghiệp đăng ký áp dụng.   Đánh giá yếu tố bên ngoài ảnh hưởng lớn nhất đến việc ứng dụng hóa đơn điện tử trong công tác kế toán:   Biểu đồ 3:Yếu tố bên ngoài ảnh hưởng lớn nhất đến ứng dụng hóa đơn điện tử trong công tác kế toán doanh nghiệp   Kết quả từ Biểu đồ 3 cho thấy sự đa dạng hơn về quan điểm đánh giá các yếu tố bên ngoài ảnh hưởng lớn nhất đến chất lượng ứng dụng hóa đơn điện tử trong công tác kế toán doanh nghiệp. Trong đó, 40,8% ý kiến cho rằng do sự tác động của lãnh đạo, nhân viên của đối tác có ảnh hưởng lớn nhất đến việc ứng dụng hóa đơn điện tử trong công tác kế toán; 52,1% ý kiến cho rằng ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác kế toán là một xu hướng của xã hội nên việc ứng dụng hóa đơn điện tử là tất yếu; 21,1% đánh giá ảnh hưởng lớn là từ tác động theo các doanh nghiệp có quy mô lớn, doanh nghiệp có uy tín; 22,5% đánh giá do sự ảnh hưởng lớn từ truyền thông. Kết quả này cho thấy để việc triển khai áp dụng một chế độ chính sách như chính sách sử dụng hóa đơn điện tử hiện nay sẽ rất cần có sự tác động và tham gia từ nhiều bên nhằm đem lại hiệu quả trong triển khai và thực hiện.   Đánh giá về tính năng vượt trội khi sử dụng hóa đơn điện tử: Gần 90% ban giám đốc và kế toán doanh nghiệp được khảo sát đánh giá hóa đơn điện tử có tất cả những tính năng vượt trội như: Đảm bảo tốc độ xử lý nhanh, ổn định; Đảm bảo tính bảo mật và an toàn dữ liệu; Đảm bảo tính linh hoạt; Đảm bảo độ tin cậy và chính xác cao.   Đánh giá về sự hài lòng của các doanh nghiệp tỉnh Sơn La về việc sử dụng hóa đơn điện tử hiện nay cho thấy: Trên 97% người được hỏi đánh giá hài lòng và rất hài lòng với việc sử dụng hóa đơn điện tử, 2,8% người được hỏi đánh giá tương đối hài lòng và không có ai trả lời là không hài lòng. Điều này cho thấy chủ trương và chính sách áp dụng hóa đơn điện tử hiện nay trong bối cảnh yêu cầu đặt ra trong tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ số vào các hoạt động kinh tế xã hội trong đó có công tác kế toán là cần thiết với thực tiễn. Do đó, cho thấy chủ trương, chính sách và thực tiễn triển khai thực hiện phù hợp, nhận được sự ủng hộ cao của cộng đồng doanh nghiệp vì tính hiệu quả và tính hữu ích trong thực tiễn áp dụng.   Bên cạnh những thành tựu, kết quả đạt được trong ứng dụng hóa đơn điện tử vào hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp và công tác kế toán như trên, đến nay quá trình áp dụng hóa đơn điện tử tại các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Sơn La cũng vẫn còn có những hạn chế, khó khăn nhất định. Cụ thể: Trên 90% doanh nghiệp được khảo sát cho thấy doanh nghiệp từng bị vướng mắc về hệ thống mạng internet hay gặp sự cố mạng kém hoặc không ổn định, dẫn đến đôi khi việc cập nhật dữ liệu trên hóa đơn điện tử còn chưa kịp thời, chưa đảm bảo cho hoạt động thông suốt của doanh nghiệp. Đây cũng là khó khăn lớn nhất mà doanh nghiệp gặp phải, nguyên nhân là do đường truyền mạng internet của doanh nghiệp trang bị chưa đáp ứng được yêu cầu sử dụng công nghệ số hiện tại hoặc có một số doanh nghiệp đóng trên địa bàn vùng sâu, vùng xa của các xã, huyện miền núi bị hạn chế về địa hình hiểm trở nên sóng internet không ổn định, vì vậy, dẫn đến khó khăn này xảy ra thường xuyên với doanh nghiệp làm ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động giao dịch và thanh toán trong doanh nghiệp.   Ngoài ra, có đến gần 30% ý kiến khảo sát cho biết doanh nghiệp từng gặp vấn đề hoặc sự cố nảy sinh khi sử dụng hóa đơn điện tử mà nhân viên kế toán lúng túng, chưa biết cách xử lý, giải quyết. Nguyên nhân do việc sử dụng hóa đơn điện tử được triển khai rộng rãi đến các doanh nghiệp được hơn 2 năm, với một số kế toán doanh nghiệp chưa quen tình huống mới phát sinh, kỹ năng của một số kế toán còn hạn chế nên đôi khi bị lúng túng trong một số trường hợp xử lý sai sót hóa đơn.   Bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng có những lo ngại về rủi ro gặp phải khi sử dụng hóa đơn điện tử như: 86% người trả lời khảo sát còn lo lắng rủi ro về tính bảo mật của doanh nghiệp, có thể bị sao chép thông tin khi thông tin hóa đơn điện tử được truyền dưới dạng điện tử, có thể bị đối tượng xấu xâm nhập, chiếm quyền kiểm soát hoặc lấy cắp thông tin; 4% lo lắng bị sai lệch thông tin khi tiếp nhận hoặc thiết lập hóa đơn điện tử cho khách hàng, do không trực tiếp cung cấp thông tin để nhận kiểm tra trực tiếp như hóa đơn giấy trước đây; 20% lo lắng về gian lận trong giao nhận hàng hóa, khi có người cố tình ngụy tạo hóa đơn điện tử trên web giả để lừa giao nhận hàng hóa giả, không đúng giao dịch.   Ban giám đốc và các kế toán doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh cũng đưa ra những nhận định về xu hướng ứng dụng hóa đơn điện tử trong thời gian tới với bối cảnh phát triên mạnh mẽ của công nghệ thông tin như: 82% doanh nghiệp cho rằng việc áp dụng hóa đơn điện tử sẽ ngày càng được áp dụng một cách đồng bộ, toàn diện; 18% doanh nghiệp cho rằng việc ứng dụng hóa đơn điện tử kết hợp với công nghệ AI trong công tác kế toán để nâng cao hiệu quả hạch toán sẽ được ứng dụng tại doanh nghiệp của họ trong thời gian tới. Từ kết quả này cho thấy, mặc dù là 1 tỉnh miền núi vùng Tây Bắc luôn được coi là vùng trũng về điều kiện tiếp cận phát triển kinh tế xã hội, nhưng những nhận định về xu hướng ứng dụng hóa đơn điện tử trong thời gian tới tại các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Sơn La đã bắt kịp theo xu hướng chung của cả nước, điều này cho thấy tác động của ứng dụng công nghệ thông tin trong lĩnh vực kế toán thông qua ứng dụng sử dụng hóa đơn điện tử là rất lớn.   3. Một số giải pháp, khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng hóa đơn điện tử trong công tác kế toán tại các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Sơn La   Sau hơn 2 năm triển khai thực hiện rộng rãi đến 100% các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Sơn La, kết quả cho thấy đánh giá tích cực từ ban giám đốc và các kế toán viên chỉ ra lợi ích và sự hài lòng ở mức cao, trong đó tỷ lệ rất hài lòng chiếm đến 56,3%. Tuy vậy, một số băn khoăn, lo lắng, vướng mắc trong quá trình sử dụng hóa đơn điện tử cần tiếp tục được tháo gỡ trong thời gian tới nhằm tăng cường hiệu quả, từ đó tác động thuận lợi cho công tác tổ chức thực hiện khâu chứng từ ban đầu vào tổ chức công tác kế toán trong doanh nghiệp trên địa bàn Tỉnh. Do đó, bài viết đề xuất một số giải pháp, khuyến nghị cần thực hiện như sau:   Một là, để đảm bảo sự hoạt động liên tục trong việc phát hành, tiếp nhận, sử dụng hóa đơn điện tử trong công tác kế toán hiệu quả hơn thì yêu cầu đặt ra là doanh nghiệp phải tăng cường đầu tư, nâng cấp đường truyền mạng internet, nâng cấp trang thiết bị, cơ sở hạ tầng phục vụ cho việc khởi tạo, xuất, gửi và lưu trữ hóa đơn đáp ứng được yêu cầu sử dụng. Đảm bảo sự đồng bộ, phù hợp về đường truyền internet, cấu hình máy tính và hệ thống máy chủ trong doanh nghiệp.   Hai là, cần nâng cao trình độ của nhân viên kế toán, tăng cường nhận thức và kỹ năng về công nghệ thông tin. Đây là giải pháp có ý nghĩa quyết định trong việc ứng dụng thành công công nghệ thông tin và sử dụng hóa đơn điện tử ngày càng có hiệu quả trong doanh nghiệp. Dù doanh nghiệp có trang bị hệ thống trang thiết bị hiện đại hay chọn nhà cung cấp dịch vụ tốt về hóa đơn điện tử nhưng nếu nhân viên kế toán không đủ kỹ năng hoặc hiểu biết về công nghệ và quy trình ứng dụng hóa đơn điện tử đồng bộ trong hạch toán tự động vào sổ và báo cáo kế toán, thì hiệu quả của việc triển khai sẽ bị giảm sút.   Ba là, để nâng cao năng lực của kế toán viên, thì cơ quan chức năng tiếp tục thường xuyên tổ chức các buổi tọa đàm đào tạo, hội thảo, tập huấn nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ trong công tác kế toán, hiện đại hóa quy trình kế toán thông qua ứng dụng công nghệ số, giúp kế toán có thể ứng dụng, vận dụng hiệu quả vào doanh nghiệp của mình.   Bốn là, cần tăng cường tính chủ động tiếp cận, học hỏi của nhân viên kế toán, nâng cao kỹ năng xử lý các trường hợp điều chỉnh hóa đơn khi bị sai, hủy bỏ hóa đơn điện tử một cách thành thạo. Đồng thời, kế toán cần chủ động học hỏi để có kiến thức cơ bản trong quy trình bảo mật thông tin trên không gian mạng, đảm bảo sự an toàn dữ liệu kế toán và thông tin khi ứng dụng liên thông dữ liệu hóa đơn điện tử với phần mềm kế toán trong hạch toán ghi sổ và lập báo cáo kế toán.   Như vậy, thông qua kết quả khảo sát và phỏng vấn sâu các đối tượng trong ban giám đốc và các kế toán doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Sơn La, bài viết đã cho thấy hiệu quả tác động tích cực rõ rệt của việc ứng dụng hóa đơn điện tử trong công tác kế toán của các doanh nghiệp thời gian qua, cũng như nắm bắt về nhận thức xu hướng ứng dụng hóa đơn điện tử thời gian tới. Đồng thời, ghi nhận phán ánh về những khó khăn, vướng mắc trong quá trình áp dụng hóa đơn điện tử với điều kiện tình hình thực tiễn của các doanh nghiệp. Từ đó, bài viết đã đề xuất một số giải pháp, khuyến nghị phù hợp nhằm tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi, góp phần tăng cường hơn nữa hiệu quả ứng dụng hóa đơn điện tử trong công tác kế toán của doanh nghiệp trên địa bàn Sơn La.   TÀI LIỆU THAM KHẢO   1. Bộ Tài chính (2021), Thông tư 78/2021/TT-BTC của Bộ Tài chính ban hành ngày 17/9/2021;   2. Chính phủ (2020), Nghị định số 123/2020/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 19/10/2020 quy định về hóa đơn, chứng từ;   3. Phạm Hữu Trị (2019), Nghiên cứu xu hướng sử dụng hóa đơn điện tử của các doanh nghiệp tại chi cục thuế quận Bình Thủy thành phố Cần Thơ, Luận văn thạc sỹ;   4. Phạm Thị Thu Huyền (2022), Một số khuyến nghị nâng cao hiệu quả sử dụng hóa đơn điện tử trong công tác quản lý tại Việt Nam hiện nay, Tạp chí Công Thương;   5. Phan Lê Trang, Phí Thị Diễm Hồng, Trần Nguyễn Thị Yến, Nguyễn thị Hải Bình (2022), Xác định các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác kế toán tại các doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn thành phố Hà Nội, Tạp chí Khoa học Nông nghiệp Việt Nam, 20(5): 665-676;   6. Nguyễn Thu Trang (2018), Một số vấn đề về Hóa đơn điện tử, Tạp chí Tài chính.

LÝ THUYẾT CUNG CẦU TỚI SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA KIỂM TOÁN MÔI TRƯỜNG

ThS. Lê Hoài Phương   Phòng Kiểm toán môi trường, Kiểm toán nhà nước chuyên ngành III       Quy luật cung cầu hay nguyên lí cung cầu là quy luật của nền kinh tế thị trường cho thấy qua sự điều chỉnh của thị trường, một mức giá cân bằng (còn gọi là mức giá thị trường) và một lượng giao dịch hàng cân bằng (lượng cung cấp bằng lượng cầu) sẽ được xác định. Trong bài này, tác giả đưa ra lý thuyết cung - cầu để giải thích sự hình thành và phát triển của kiểm toán môi trường trong lĩnh vực công dựa trên mối quan hệ giữa Kiểm toán nhà nước (bên cung) và các bên liên quan (Quốc hội, Chính phủ, các đơn vị được kiểm toán và Nhân dân – bên cầu). Lý thuyết Cung cầu được sử dụng để giải thích cơ chế về nhu cầu của khách hàng (Quốc hội, Chính phủ và các đơn vị liên quan) đến khả năng đáp ứng của cơ quan kiểm toán tối cao, các hoạt động kiểm toán là một sản phẩm kinh tế, được hình thành từ nhu cầu của người cần sử dụng thông tin, khả năng cung cấp của cơ quan kiểm toán.   Từ khóa: Quy luật cung cầu, kiểm toán môi trường.   The theory of supply and demand leads to the formation and development of environmental auditing   The law of supply and demand, or the supply-demand principle, is an economic law that explains how, through market adjustments, an equilibrium price (also known as market price) and an equilibrium quantity of goods traded (quantity supplied equals quantity demanded) are determined. In this paper, the author applies the supply-demand theory to explain the formation and development of environmental auditing in the public sector, based on the relationship between the Supreme Audit Institution (the supplier) and relevant stakeholders (National Assembly, Government, audited entities, and the public - the demanders). The supply-demand theory is used to explain the mechanism of how the demand of customers (National Assembly, Government, and relevant entities) drives the supply capacity of the Supreme Audit Institution, where audit activities are considered an economic product, formed from the need for information and the supply capacity of the Supreme Audit Institution.   Keywords: Law of supply and demand, environmental audit.   Lý thuyết cung - cầu trong kinh tế học vi mô được James Denham Steuart khởi xướng lần đầu tiên trong cuốn sách “Tìm hiểu nguyên lý kinh tế chính trị” (Inquiry into the Principles of Political Economy) xuất bản năm 1767. Sau đó, Adam Smith phát triển tiếp lý thuyết này trong cuốn sách “Của cải của các dân tộc” (The Wealth of Nations) vào năm 1776 và được áp dụng phổ biết trong lý thuyết kinh tế cho đến nay. Đây được coi là một trong những lý thuyết quan trọng nhất của kinh tế học, được xây dựng trên cơ sở của mô hình cung cầu để phân tích hành vi của người sản xuất và người tiêu dùng tác động qua lại với nhau trên thị trường, ngoài ra còn thể hiện sự tác động từ chính sách của các cơ quan quản lý trên thị trường.   1. Lý thuyết cung cầu trong sự hình thành của kiểm toán môi trường   1.1. Cầu của kiểm toán môi trường   Kiểm toán môi trường chỉ xuất hiện khi có nhu cầu, và phát triển thành công khi các cơ quan kiểm toán tối cao có thể đáp ứng nhu cầu này một cách hợp lý (cân bằng cung cầu). Trong đó, cầu về kiểm toán môi trường xuất hiện và chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác nhau:   Thứ nhất, cầu kiểm toán môi trường được tạo ra bởi yêu cầu trực tiếp từ Quốc hội và Chính phủ. Tại các nước phát triển như Mỹ, Canada, Thụy Điển, Đức và một số quốc gia khác, các nghị sĩ Quốc hội thường yêu cầu cung cấp thông tin về tính hiệu quả, sự bền vững trong việc quản lý và bảo vệ môi trường. Quốc hội và Chính phủ muốn biết liệu các nguồn lực và chính sách môi trường có đang được triển khai hiệu quả hay không, và các cơ quan chịu trách nhiệm trong quản lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường có thực hiện đầy đủ trách nhiệm giải trình về những hoạt động này không. Điều này đã thúc đẩy các cơ quan kiểm toán tối cao và các kiểm toán viên phải mở rộng phạm vi kiểm toán để đánh giá tính hiệu quả, hiệu lực của các chương trình, dự án và ngân sách môi trường. Ví dụ, tại Anh, Mỹ và New Zealand, các cơ quan kiểm toán tối cao thường ưu tiên thực hiện kiểm toán môi trường theo yêu cầu của Quốc hội và Chính phủ, sau đó mới tự lựa chọn đối tượng kiểm toán môi trường dựa trên kế hoạch tổng quát của mình [10]. Do đó, vai trò của Quốc hội và Chính phủ có tác động lớn đến việc triển khai và phát triển thành công kiểm toán môi trường.   Thứ hai, cầu kiểm toán môi trường xuất phát từ những mong đợi hợp lý của xã hội nhằm khắc phục tình trạng suy thoái môi trường, lãng phí tài nguyên, và chống ô nhiễm, thường được đề cập trên các phương tiện truyền thông hoặc được phát hiện thông qua các khảo sát và số liệu từ các cơ quan kiểm toán tối cao. Cầu kiểm toán môi trường chịu ảnh hưởng bởi trình độ phát triển kinh tế, thể chế chính trị và xã hội của mỗi quốc gia. Thông thường, các quốc gia đang phát triển với hệ thống luật pháp chưa đồng bộ, mức độ minh bạch và trách nhiệm giải trình thấp thường có nhu cầu kiểm toán môi trường cao hơn so với các quốc gia phát triển với hệ thống pháp luật hiệu quả và mức độ minh bạch cao. Như tại Việt Nam, Kiểm toán nhà nước đóng vai trò quan trọng trong kiểm tra, giám sát việc quản lý và sử dụng các nguồn tài nguyên và ngân sách môi trường của Nhà nước, giúp thực hiện các mục tiêu bảo vệ môi trường, ngăn chặn các hành vi vi phạm và đảm bảo tính bền vững trong quản lý tài nguyên.   Thứ ba, lĩnh vực kiểm toán môi trường là một lĩnh vực nội dung có thể được thực hiện thông qua ba loại hình kiểm toán: kiểm toán tuân thủ, kiểm toán tài chính và kiểm toán hoạt động. Trong đó, kiểm toán tuân thủ tập trung vào việc đảm bảo rằng các quy định và luật pháp về môi trường được tuân thủ đúng mực, kiểm toán tài chính đánh giá tính hiệu quả về nguồn kinh phí sử dụng khi thực hiện các chương trình môi trường và kiểm toán hoạt động đánh giá hiệu quả và tính bền vững của các chính sách và hoạt động quản lý môi trường. Tuy nhiên, với tính chất đặc thù và sự phức tạp của các vấn đề môi trường, kiểm toán hoạt động được khuyến khích áp dụng nhiều hơn trong lĩnh vực này. Kiểm toán hoạt động về lĩnh vực môi trường không chỉ đánh giá mức độ tuân thủ mà còn đi sâu vào việc phân tích hiệu quả và tác động lâu dài của các chính sách và chương trình bảo vệ môi trường. Do đó, để phát triển và giữ vững vị thế, các cơ quan kiểm toán tối cao tự điều chỉnh và tăng cường kiểm toán hoạt động, trong đó đẩy mạnh các cuộc kiểm toán hoạt động trong lĩnh vực môi trường nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu về phát triển bền vững.   Thứ tư, cầu kiểm toán môi trường cũng tăng lên khi các cơ quan kiểm toán tối cao áp dụng những phương pháp và kỹ thuật kiểm toán mới [4,6,5]. Tại Việt Nam, trong những năm gần đây, Kiểm toán nhà nước đã chú trọng đến kiểm toán môi trường, đưa ra các đánh giá và khuyến nghị nhằm đáp ứng yêu cầu cấp bách của xã hội về vấn đề ô nhiễm và suy thoái môi trường. Để đáp ứng tốt hơn nữa những đòi hỏi của xã hội và nâng cao hiệu quả của hoạt động kiểm toán, Kiểm toán nhà nước đã tăng cường các cuộc kiểm toán môi trường và coi đó là xu hướng tất yếu trong sự phát triển của khoa học kiểm toán.   1.2. Cung kiểm toán môi trường   Cung kiểm toán môi trường phụ thuộc vào thẩm quyền, chức năng, nhiệm vụ cũng như khả năng của mỗi cơ quan kiểm toán tối cao trong từng giai đoạn nhất định. Khi cầu về kiểm toán môi trường xuất hiện, các cơ quan kiểm toán tối cao sẽ điều chỉnh, bổ sung thêm chức năng kiểm toán môi trường và nhận được sự đồng thuận trong xã hội. Khả năng cung cấp kiểm toán môi trường của các cơ quan kiểm toán tối cao phụ thuộc vào nhiều nhân tố, như khả năng vận dụng các phương pháp và kỹ thuật kiểm toán mới, sự ủng hộ từ phía Quốc hội và Chính phủ, khả năng tổ chức triển khai hoạt động kiểm toán, cũng như năng lực chuyên môn của các kiểm toán viên.   2. Quá trình hình thành và phát triển kiểm toán môi trường của Kiểm toán nhà nước   Kiểm toán môi trường tại Việt Nam bắt đầu xuất hiện từ những năm 1990, trong bối cảnh toàn cầu hóa và nhận thức về bảo vệ môi trường ngày càng gia tăng. Ban đầu, kiểm toán môi trường chỉ được thực hiện dưới dạng tự nguyện tại một số doanh nghiệp lớn, đặc biệt là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, chịu áp lực tuân thủ các tiêu chuẩn môi trường quốc tế. Giai đoạn này chủ yếu tập trung vào việc đánh giá mức độ tuân thủ pháp luật và các quy định môi trường tại các tổ chức, doanh nghiệp của các cơ quan quản lý nhà nước. Từ đầu những năm 2000, kiểm toán môi trường dần trở thành một yêu cầu pháp lý rõ ràng trong nhiều lĩnh vực. Cụ thể, Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 và các văn bản pháp luật liên quan đã đặt nền tảng cho sự phát triển của kiểm toán môi trường tại Việt Nam. Sự tham gia của Kiểm toán nhà nước trong lĩnh vực kiểm toán môi trường bắt đầu từ năm 2011, Kiểm toán nhà nước thành lập Nhóm kiểm toán môi trường và chính thức tham gia vào Nhóm công tác môi trường của tổ chức INTOSAI (WGEA INTOSAI). Đây là một bước tiến lớn nhằm đưa Việt Nam vào dòng chảy chung của kiểm toán môi trường quốc tế, học hỏi và áp dụng các tiêu chuẩn, phương pháp kiểm toán tiên tiến. Năm 2012, Kiểm toán nhà nước đã thực hiện cuộc kiểm toán hoạt động đầu tiên trong lĩnh vực môi trường về quản lý nước lưu vực sông Mê Kông. Đây là một cuộc kiểm toán phối hợp với 5 quốc gia tham gia, gồm Lào, Campuchia, Myanmar, Thái Lan và Việt Nam, cùng sự hỗ trợ từ GIZ (Cộng hòa Liên bang Đức). Cuộc kiểm toán này đã đặt nền tảng cho Kiểm toán nhà nước Việt Nam tham gia sâu hơn vào các hoạt động kiểm toán quốc tế và phát triển phương pháp kiểm toán môi trường.   Tới năm 2014, khi Phòng Kiểm toán hoạt động của Kiểm toán nhà nước được thành lập, đây không phải là đơn vị được thành lập để tổ chức riêng về kiểm toán môi trường nhưng với với đặc thù của kiểm toán môi trường chủ yếu được thực hiện với loại hình kiểm toán hoạt động thì việc tổ chức và hoạt động của Phòng có thể được xem như tiền đề của lĩnh vực kiểm toán môi trường của Kiểm toán nhà nước. Tháng 10/2015, nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao về kiểm toán trong lĩnh vực môi trường và phát triển bền vững, Kiểm toán nhà nước đã thành lập Phòng Kiểm toán môi trường (nay trực thuộc Kiểm toán nhà nước chuyên ngành III). Việc thành lập này diễn ra theo lộ trình của Chiến lược phát triển Kiểm toán nhà nước, trong đó nhấn mạnh đến vai trò của kiểm toán đối với các vấn đề kinh tế - xã hội, môi trường và phát triển bền vững. Trong quá trình thành lập và phát triển, Kiểm toán nhà nước đã tích cực hợp tác với các tổ chức quốc tế như Tổ chức Các cơ quan Kiểm toán tối cao quốc tế (INTOSAI), Tổ chức các cơ quan kiểm toán tối cao châu Á (ASOSAI)… và các tổ chức phát triển bền vững khác để học hỏi và áp dụng các tiêu chuẩn, phương pháp kiểm toán môi trường tiên tiến. Kiểm toán viên của Phòng Kiểm toán môi trường nói riêng và Kiểm toán nhà nước nói chung được cử tham gia các chương trình đào tạo chuyên sâu, hội thảo, tọa đàm với chuyên gia trong và ngoài nước nhằm nâng cao năng lực và đáp ứng các yêu cầu mới trong lĩnh vực kiểm toán môi trường.   Các cuộc kiểm toán môi trường được Kiểm toán nhà nước tổ chức thực hiện thường xuyên hơn trong những năm gần đây, trong đó một số cuộc kiểm toán môi trường tiêu biểu có thể kể đến như: Kiểm toán hoạt động quản lý và xử lý chất thải y tế tại các bệnh viện (năm 2019); Kiểm toán việc quản lý nguồn nước lưu vực sông Mê Công gắn với việc thực hiện mục tiêu phát triển bền vững, phối hợp với các nước Lào, Campuchia, Myanmar, Thái Lan kiểm toán việc quản lý môi trường nước lưu vực sông Mê Công (năm 2021); Kiểm toán công tác quản lý môi trường của các nhà máy nhiệt điện Quảng Ninh (năm 2023); Kiểm toán công tác quản lý, bảo vệ môi trường đối với các cụm công nghiệp và làng nghề (năm 2022, 2023)… Đặc biệt, kết quả cuộc kiểm toán phối hợp với 04 nước về quản lý nguồn nước lưu vực sông Mê Công đã nâng tầm của Kiểm toán nhà nước với cộng đồng ASOSAI và bạn bè quốc tế.   Các kiến nghị trong các cuộc kiểm toán môi trường của Kiểm toán nhà nước đã chỉ ra nhiều đơn vị không tuân thủ các quy định về xử lý chất thải hoặc vi phạm các quy định về bảo vệ tài nguyên thiên nhiên; cảnh báo các yếu tố nguy cơ đã và đang gây tác hại cho môi trường; những tồn tại, bất cập trong hệ thống cơ chế chính sách và hành lang pháp lý về bảo vệ môi trường… Từ đó, đưa ra kiến nghị kịp thời với các cơ quan liên quan nhằm sửa đổi, ban hành văn bản quy phạm pháp luật và chấn chỉnh, khắc phục những tồn tại, hạn chế, nhằm nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả và trách nhiệm giải trình trong công tác bảo vệ môi trường, giảm thiểu những tác hại đến môi trường...   Không chỉ có ý nghĩa trên phạm vi quốc gia, Kiểm toán môi trường còn đóng vai trò then chốt trong việc giúp Việt Nam đáp ứng các cam kết quốc tế về biến đổi khí hậu và phát triển bền vững. Đặc biệt, Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu (Paris Agreement, 2015) đã đặt ra những mục tiêu lớn, trong đó, Việt Nam cam kết giảm phát thải khí nhà kính và xây dựng lộ trình cụ thể nhằm hạn chế tối đa tác động của biến đổi khí hậu. Kiểm toán môi trường góp phần quan trọng trong việc giám sát các hoạt động công nghiệp, nhằm đảm bảo rằng những cam kết này được thực thi một cách nghiêm túc.   Hơn thế nữa, vai trò của kiểm toán môi trường có ý nghĩa tích cực đối với Việt Nam trong việc đạt được các mục tiêu phát triển bền vững của Liên Hợp Quốc (Sustainable Development Goals - SDGs). Các mục tiêu liên quan trực tiếp đến môi trường như SDG 6 về nước sạch và vệ sinh, SDG 7 về năng lượng sạch và giá cả hợp lý, SDG 13 về hành động chống biến đổi khí hậu và SDG 15 về bảo vệ tài nguyên đất luôn được hỗ trợ và giám sát thông qua các cuộc kiểm toán môi trường và kiểm toán chuyên đề của Kiểm toán nhà nước.   Kết luận   Cùng với sự phát triển của nền kinh tế và nhận thức ngày càng tăng về tầm quan trọng của bảo vệ môi trường, kiểm toán môi trường đã hình thành và phát triển, ngày càng trở thành nhu cầu tất yếu của các bên liên quan. Kiểm toán môi trường không chỉ cung cấp thông tin đáng tin cậy về tính tuân thủ và hiệu quả trong sử dụng tài nguyên mà còn hỗ trợ cho việc đưa ra các quyết định chiến lược về quản lý môi trường, phát triển bền vững.   Kiểm toán môi trường chỉ xuất hiện khi có nhu cầu và phát triển thành công khi các cơ quan kiểm toán tối cao có khả năng đáp ứng nhu cầu một cách hợp lý, tạo ra sự cân bằng trong cung cầu. Trong bối cảnh này, cầu về kiểm toán môi trường chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố, bao gồm yêu cầu từ Quốc hội, Chính phủ, các doanh nghiệp và kỳ vọng từ xã hội. Để đáp ứng cầu, cung kiểm toán môi trường cũng đòi hỏi các cơ quan kiểm toán tối cao cần có năng lực chuyên môn, thẩm quyền pháp lý, khả năng triển khai các phương pháp và kỹ thuật hiện đại cùng với sự ủng hộ mạnh mẽ từ các cơ quan Quốc hội và Chính phủ.   Tuy nhiên, ở nhiều quốc gia đang phát triển, mặc dù nhu cầu đối với kiểm toán môi trường rất cao do tình trạng ô nhiễm và suy thoái tài nguyên, nhưng khả năng cung cấp loại hình kiểm toán này còn hạn chế. Điều này là do sự thiếu hụt về nhân lực chuyên môn, tài chính và cơ sở pháp lý. Do đó, để phát triển kiểm toán môi trường và đảm bảo cung cầu cân bằng, các nước cần đầu tư vào đào tạo, phát triển công nghệ, và xây dựng một hệ thống pháp lý vững chắc nhằm nâng cao năng lực kiểm toán.   Trong tương lai, kiểm toán môi trường sẽ tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ môi trường, hỗ trợ phát triển bền vững và tạo dựng một nền kinh tế “xanh” hơn. Việc hoàn thiện các yếu tố cung cầu trong kiểm toán môi trường sẽ không chỉ đáp ứng nhu cầu giám sát và minh bạch mà còn đóng góp tích cực vào việc giải quyết các thách thức môi trường toàn cầu. Sự phối hợp giữa các quốc gia, sự hỗ trợ từ cộng đồng quốc tế, và các nỗ lực không ngừng của các cơ quan kiểm toán tối cao sẽ là chìa khóa giúp kiểm toán môi trường phát triển bền vững và hiệu quả.   TÀI LIỆU THAM KHẢO   1. Arnold, D. F., Sr., Bernardi, R. A., & Neidermeyer, P. E. (1999). The effect of independence on decisions concerning additional audit work: A European perspective. Auditing: A Journal of Practice & Theory, 18 (Suppl.), 45-67;    2. Chính phủ Việt Nam. (2023). Chính sách và Biện pháp giải quyết các thách thức về môi trường;    3. Deis, D. R., Jr., & Giroux, G. A. (1992). Determinants of audit quality in the public sector. The Accounting Review, 67, 462-479;    4. Hatherly, D., & Parker, L. D. (1988). The origins of modern public sector accounting standards: Influences on the audit commission’s stance. Management Accounting Research, 1(2), 165-177;    5. Lapsley, I., & Pong, C. K. M. (2000). Modernization versus problematization: Value-for-money audit in public services. European Accounting Review, 9(4), 541-567;    6. Pollitt, C., Girre, X., Lonsdale, J., Mul, R., Summa, H., & Waerness, M. (1999). Performance or compliance? Performance audit and public management in five countries. Oxford University Press;   7. Steuart, J. D. (1767). Inquiry into the Principles of Political Economy;   8. United Nations. (2015). Chuyển đổi thế giới của chúng ta: Chương trình Nghị sự 2030 về Phát triển Bền vững;   9. Wilkin, T., & Lonsdale, J. (2007). Public sector auditing: Is it value for money? International Journal of Public Sector Management, 20(5), 421-435.