(khoahockiemtoan.vn) - Ngày 28/11/2017, tại trụ sở Kiểm toán nhà nước, Hội đồng khoa học KTNN đã tổ chức nghiệm thu đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ: “Hoàn thiện hệ thống mẫu biểu hồ sơ kiểm toán của Kiểm toán nhà nước” do TS. Hoàng Quang Hàm và Ths. Ngô Minh Kiểm làm đồng chủ nhiệm. Chủ tịch Hội đồng nghiệm thu là GS,TS. Đoàn Xuân Tiên– Phó Tổng Kiểm toán nhà nước, Chủ tịch Hội đồng Khoa học Kiểm toán nhà nước. Tham dự buổi nghiệm thu có các thành viên Hội đồng nghiệm thu và thành viên của Ban đề tài.
Qua hơn 23 năm thành lập và phát triển, Kiểm toán nhà nước đã có những bước phát triển quan trọng về địa vị pháp lý, chuyên môn nghiệp vụ và quy trình hoạt động, trong đó có các quy định về hệ thống mẫu biểu hồ sơ kiểm toán. Song thực tế cho thấy cùng với sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống cơ sở pháp lý, văn bản pháp quy và chuẩn mực kiểm toán trong những năm gần đây đòi hỏi cần có sự hoàn thiện, chỉnh sửa, bổ sung đối với các mẫu biểu hồ sơ kiểm toán để các mẫu biểu này phục vụ tốt nhất cho hoạt động kiểm toán và kiểm soát chất lượng kiểm toán.
Bên cạnh đó, mẫu biểu hồ sơ kiểm toán là một trong những nhân tố quyết định đến tính chuyên nghiệp trong hoạt động kiểm toán, góp phần đưa hoạt động kiểm toán vào nề nếp, chuẩn hóa và thống nhất chung giữa các đơn vị, đối tượng và loại hình kiểm toán có nét tương đồng. Do đó, việc nghiên cứu xây dựng hoặc sửa đổi bổ sung hệ thống hồ sơ mẫu biểu hiện có để hoàn thiện và ứng dụng trong thực tiễn kiểm toán là một yêu cầu cấp thiết của Kiểm toán nhà nước trong giai đoạn hiện nay.
Từ thực tế trên cho thấy việc lựa chon đề tài nghiên cứu: “Hoàn thiện hệ thống mẫu biểu hồ sơ kiểm toán của Kiểm toán nhà nước” có ý nghĩa cả về lý thuyết và thực tiễn đối với hoạt động kiểm toán và kiểm soát chất lượng kiểm toán của Kiểm toán nhà nước trong giai đoạn hiện nay.
Đề tài: “Hoàn thiện hệ thống mẫu biểu hồ sơ kiểm toán của Kiểm toán nhà nước” được kết cấu thành 2 chương, Kết quả nghiên cứu chính của đề tài như sau: Chương 1, Cơ sở lý luận và thực tiễn về mẫu biểu HSKT: Tổng quan (về lý luận) về mẫu biểu HSKT của KTNN (khái niệm, phân loại, nội dung, vai trò, những nhân tố tác động), đã hệ thống được những nội dung cơ bản về lý luận của mẫu biểu HSKT, làm cơ sở cho nghiên cứu thực tiễn và đề xuất giải pháp; Thực trạng mẫu biểu HSKT của KTNN VN, đã nghiên cứu tương đối hệ thống vầ hiện trạng và đặc biệt là rút ra những hạn chế, nguyên nhân hạn chế về hệ thống mẫu biểu HSKT và sự vận dụng trong thực tế; Kinh nghiệm của 1 số SAI và Hội KTV hành nghề VN trong xây dựng và hoàn thiện mẫu biểu HSKT. Đây là nội dung có tính tổng kết thực tiễn các CQ KTNN khác để so sánh, đánh giá, định hướng cho KTNN VN.
Chương 2, Giải pháp hoàn thiện mẫu biểu HSKT của KTNN: Khẳng định sự cần thiết, định hướng, nguyên tắc hoàn thiện mẫu biểu HSKT của KTNN. Về cơ bản, những nội dung này là hợp lý và đúng đắn đối với KTNN VN; Mô hình xây dựng và hoàn thiện mẫu biểu HSKT được nghiên cứu và trình bày rất chi tiết, thể hiện sự “thiết kế điều chỉnh” toàn bộ hệ thống mẫu biểu HSKT (cả sửa đổi, bổ sung) là có tính logic với những nghiên cứu tại chương 1; Giải pháp hoàn thiện và áp dụng mẫu biểu HSKT của KTNN, được trình bày khá hợp lý và khả thi; Kiến nghị lộ trình và điều kiện thực hiện là cần thiết và hợp lý.
Hội đồng đánh giá Đề tài có kết cấu phù hợp, có tính khoa học và thực tiễn cao. Tuy nhiên, để hoàn thiện đề tài, Hội đồng nghiệm thu đã góp ý, đề nghị đề tài hoàn thiện theo hướng: cần bổ sung cơ sở xây dựng hoặc cơ sở hoàn thiện mẫu biểu hồ sơ kiểm toán tức là cần xác định rõ khi nào cần xây dựng mẫu biểu chung, mức độ chi tiết của của mẫu biểu đến đâu nhằm đảm bảo tính khoa học của mẫu biểu hồ sơ kiểm toán và cân đối giữa tính chi tiết và yêu cầu linh hoạt của hoạt động kiểm toán. Đồng thời, mẫu biểu hồ sơ kiểm toán được coi là “công cụ dùng để ghi chép, phản ánh diễn biến, nội dung và kết quả kiểm toán” nên phụ thuộc rất nhiều vào quy trình, quy định về thủ tục và trình tự kiểm toán. Tuy nhiên, việc hoàn thiện mẫu biểu hồ sơ kiểm toán theo Luật KTNN và Chuẩn mực KTNN trong khi chưa hoàn thiện các văn bản hướng dẫn sẽ tạo ra lỗ hổng về lý thuyết làm cầu nối giữa Luật KTNN, Chuẩn mực KTNN với hệ thống mẫu biểu hồ sơ kiểm toán; dẫn đến việc xây dựng hồ sơ mẫu biểu sẽ quyết định ngược chiều lại quy trình, nội dung kiểm toán. Do đó, Đề tài cần nghiên cứu bổ sung các cơ sở khoa học để sửa đổi các mẫu biểu hồ sơ với các nội dung đã nêu.
Hơn nữa, đề tài cần bổ sung cơ sở lựa chọn phương án xây dựng Mẫu biểu hồ sơ kiểm toán lồng ghép cả 03 loại hình kiểm toán vì theo kinh nghiệm của các SAIs việc lồng ghép 03 loại hình kiểm toán (kinh nghiệm của Philippine, Nhật Bản và Canada (trước đây)…) được dựa trên 01 quy trình, phương pháp tiếp cận kiểm toán hoàn toàn khác so với các cuộc kiểm toán được thực hiện riêng lẻ (kinh nghiệm của Úc, Mỹ, Canada (hiện nay), Brutal…). Vì vậy, Ban chủ nhiệm Đề tài nên nghiên cứu để thấy được các đặc thù về phương thức tiếp cận kiểm toán của các quốc gia có hệ thống mẫu biểu hồ sơ lồng ghép 03 loại hình kiểm toán có tương đồng với Việt Nam hay không?
Đồng thời, các thành viên Hội đồng khoa học đã đặt ra các vấn đề để Đề tài cần tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện: Cuộc kiểm toán khi tiếp cận với mô hình của các nước (trừ nước Lào vì giống Việt Nam) là không có cấp quản lý trung gian (trưởng đoàn như hiện nay) thì hệ thống HSKT cần thay đổi thế nào? Khi tính chuyên nghiệp của KTNN cao hơn :”kết quả, kết luận, kiến nghị kiểm toán chỉ dựa vào bằng chứng kiểm toán” thì các loại BBKT (có tính hành chính) trở thành không cần thiết; vậy thì hệ thống mẫu biểu HSKT sẽ thế nào? Cần làm rõ bản chất, nội hàm một số loại biểu: Báo cáo kiểm toán; Biên bản kiểm toán? Thông báo kiểm toán? …; Nhật ký kiểm toán viên (bản chất? cần cho ai kiểm soát hay? (thực chất là phục vụ cho “ghi chép các công việc đã làm” trên cơ sở đối chiếu với Chương trình kiểm toán của từng KTV); Vấn đề cơ bản của tài liệu nghiệp vụ kiểm toán là bằng chứng kiểm toán được “chứng từ hóa” thì được thiết kế và hướng dẫn thế nào? Làm rõ vấn đề “những tài liệu chi tiết kiểm toán đối với kiểm toán hoạt động”: do tính phức tạp, đa dạng của nội dung KTHĐ … thì mẫu biểu hóa đến mức nào? (trong Mẫu biểu thường chỉ xuất hiện một đôi dòng về “tính kinh tế, hiệu quả, hiệu lực” còn lại là thuộc tài liệu kiểm toán tài chính); Khi nhận thức đúng về KSCLKT và KSNB kiểm toán và mô hình KSCLKT thay đổi (không bị trùng nhiều cấp quản lý; không theo mô hình duy nhất “tổ KS”, … thì mẫu biểu thay đổi thế nào?..
Bên cạnh đó Chủ tịch Hội đồng nghiệm thu đã đề nghị Ban đề tài cần làm rõ lộ trình phát triển của hệ thống mẫu biểu hồ sơ kiểm toán sẽ ra sao trong giai đoạn 20 -30 năm tới; và hiện nay có 2 quan điểm đó là: mẫu biểu cần quy định chi tiết cụ thể hoặc chỉ cần mẫu biểu chung chung thì quan điểm của Ban đề tài ra sao để phù hợp với thời cuộc hiện nay khi mà cuộc cách mạng công nghệ 4.0 đang phát triển và ảnh hưởng đến Việt Nam (mà cụ thể là hoạt động của Kiểm toán nhà nước)?
Kết luận buổi nghiệm thu, GS, TS. Đoàn Xuân Tiên đánh giá cao kết quả nghiên cứu của Ban Chủ nhiệm đề tài. Đề tài đáp ứng được các yêu cầu về mặt lý luận và thực tiễn trong điều kiện Luật Kiểm toán nhà nước mới và các Chuẩn mực Kiểm toán nhà nước mới ban hành đặc biệt là đóng góp vào việc hoàn thiện hồ sơ mẫu biểu trong giai đoạn trước mắt là đến 2020. Các giải trình của Ban đề tài về các vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu do Hội đồng đặt ra là phù hợp. Ban đề tài cần nghiên cứu tiếp thu các ý kiến tham gia của các thành viên Hội đồng.
Kết quả đề tài xếp loại: Xuất sắc./.