Thắt chặt tín dụng, hạ mức tăng trưởng xuống dưới 20%; giảm cung tiền, rút tổng phương tiện thanh toán còn 15-16%. Cắt giảm đầu tư công, tiết kiệm chi thường xuyên thêm 20%, giảm bội chi từ mức 5,3% năm 2011 xuống còn dưới 5%... nền kinh tế vĩ mô đang chứng kiến một sự thay da đổi thịt về chính sách kinh tế vĩ mô, khi hai chính sách tài khóa - tiền tệ lại có thể đồng hành một cách bài bản, căn cơ trong mục tiêu chung chống lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô của Chính phủ.
Giảm tổng cầu là "kế sách" được áp dụng và chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ tại Nghị quyết số 11 và các chỉ thị, quyết định, công văn trước đó của các cơ quan hữu quan. Chính sách này bằng những công cụ tài chính, tiền tệ cùng hàng loạt giải pháp toàn diện khác đánh mạnh vào cầu đầu tư, tiêu dùng của nền kinh tế với mục tiêu tối thượng giảm ngay nguồn cầu để giảm chỉ số giá tiêu dùng, kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Kế sách này được thực thi triệt để, căn cơ với sự phối hợp nhịp nhàng giữa chính sách tài chính, tiền tệ, an sinh xã hội...
Thắt chặt tiền tệ, ổn định thị trường vàng, ngoại hối
Để thực hiện chính sách trên NHNN đã ban hành Chỉ thị số 01/CT-NHNN về việc thực hiện giải pháp tiền tệ và hoạt động ngân hàng nhằm kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội.
Mục tiêu trong năm 2011, thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ và thận trọng, kiểm soát tốc độ tăng tín dụng dưới 20% và tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán khoảng 15%-16%; lãi suất và tỷ giá ở mức hợp lý. Theo đó, thứ nhất, tổ chức tín dụng xây dựng và thực hiện kế hoạch kinh doanh năm 2011 phù hợp với mục tiêu tốc độ tăng tín dụng dưới 20%. Trường hợp xây dựng kế hoạch tốc độ tăng trưởng tín dụng vượt 20%, phải báo cáo NHNN để xem xét.
Thứ hai, điều chỉnh mạnh cơ cấu và nâng cao chất lượng tín dụng. Thực hiện cấp tín dụng theo đúng quy định của pháp luật về tín dụng; đảm bảo các tỷ lệ an toàn hoạt động kinh doanh theo quy định của NHNN; không để thiếu hụt vốn khả dụng thanh toán; vốn tín dụng tập trung ưu tiên cho sản xuất - kinh doanh, khu vực nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp nhỏ và vừa. Thực hiện giảm tốc độ và tỷ trọng dư nợ cho vay lĩnh vực phi sản xuất so với năm 2010, nhất là lĩnh vực bất động sản, chứng khoán; đến 30/6/2011, tỷ trọng dư nợ cho vay lĩnh vực phi sản xuất so với tổng dư nợ tối đa là 22% và đến 31/12/2011, tỷ trọng này tối đa là 16%. Trường hợp tổ chức tín dụng chưa thực hiện được tỷ trọng này theo lộ trình, NHNN áp dụng tỷ lệ dự trữ bắt buộc gấp hai lần so với tỷ lệ dự trữ bắt buộc chung đối với tổ chức tín dụng và biện pháp hạn chế phạm vi hoạt động kinh doanh trong 06 tháng cuối năm 2011 và năm 2012. Đến 30/06/2011, nếu tốc độ tăng tín dụng có thể vượt mục tiêu theo Nghị quyết số 11/NQ-CP, NHNN áp dụng các biện pháp cần thiết, phù hợp với quy định của pháp luật để kiểm soát tín dụng.
Cho vay bằng ngoại tệ theo đúng quy định của pháp luật, đảm bảo khả năng thu hồi nợ vay bằng ngoại tệ; hạn chế cho vay nhập khẩu hàng hóa thuộc Danh mục các mặt hàng nhập khẩu không thiết yếu, hàng tiêu dùng không khuyến khích nhập khẩu do Bộ Công thương ban hành. Thực hiện huy động và cho vay bằng vàng theo quy định tại Thông tư số 22/2010/TT-NHNN ngày 29/10/2010; giảm mạnh huy động và cho vay bằng vàng, phù hợp với chủ trương của NHNN tiếp tục hạn chế việc huy động và cho vay bằng vàng của tổ chức tín dụng trong thời gian tới. Tiết kiệm chi phí kinh doanh, áp dụng lãi suất cho vay ở mức hợp lý; ấn định lãi suất huy động vốn bằng đồng Việt Nam và đô la Mỹ theo quy định của NHNN; công bố công khai lãi suất huy động và cho vay trên website và tại chi nhánh, phòng giao dịch của tổ chức tín dụng.
Đối với tỷ giá phải phù hợp với diễn biến thị trường ngoại tệ, mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô. Tăng cường quản lý ngoại hối, thực hiện các biện pháp cần thiết để các tổ chức, cá nhân trước hết là các tập đoàn kinh tế, tổng công ty Nhà nước bán ngoại tệ cho ngân hàng khi có nguồn thu và được mua khi có nhu cầu hợp lý; bảo đảm thanh khoản ngoại tệ, bình ổn tỷ giá, đáp ứng yêu cầu ổn định, phát triển kinh doanh và tăng dự trữ ngoại hối. Thực hiện các giải pháp nhằm giảm tình trạng đô la hóa, chuyển dần quan hệ huy động - cho vay bằng ngoại tệ trong nước của tổ chức tín dụng sang quan hệ mua - bán ngoại tệ. Tiếp tục thực hiện các biện pháp về quản lý sử dụng ngoại tệ, hạn chế cho vay bằng ngoại tệ, cho vay bằng đồng Việt Nam để mua ngoại tệ thanh toán nhập khẩu đối với các mặt hàng thuộc Danh mục các mặt hàng nhập khẩu không thiết yếu, hàng tiêu dùng không khuyến khích nhập khẩu do Bộ Công thương ban hành.
Kiểm soát chặt chẽ thị trường vàng; theo dõi và dự báo sát tình hình biến động giá vàng quốc tế, cung - cầu trong nước, chọn một số doanh nghiệp làm đầu mối nhập khẩu vàng, điều tiết và ổn định giá vàng, tiến tới xóa bỏ việc kinh doanh vàng miếng trên thị trường tự do; phối hợp với các bộ, ngành có liên quan và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh kiểm tra, xử lý các trường hợp đầu cơ, găm giữ, kinh doanh trái pháp luật vàng, ngoại tệ làm rối loạn thị trường; trình Chính phủ ban hành Nghị định về quản lý và kinh doanh vàng
Bên cạnh đó, hoàn thiện cơ chế quản lý hoạt động kinh doanh của tổ chức tín dụng; sửa đổi, bổ sung hình thức xử phạt vi phạm kinh doanh vàng, ngoại tệ phù hợp tình hình thị trường ngoại hối hiện nay; tăng cường thanh tra, giám sát việc cấp tín dụng và đảm bảo các tỷ lệ an toàn kinh doanh của các tổ chức tín dụng: Ban hành quy định về mua trái phiếu doanh nghiệp của các tổ chức tín dụng; số dư nợ mua trái phiếu của doanh nghiệp được tính vào tỷ lệ tăng trưởng tín dụng và các tỷ lệ an toàn hoạt động kinh doanh của tổ chức tín dụng.
Sáu tháng đầu năm 2011, tập trung thanh tra về cho vay lĩnh vực phi sản xuất; Sáu tháng cuối năm 2011, tập trung thanh tra chất lượng tín dụng và việc thực hiện các tỷ lệ đảm bảo an toàn hoạt động kinh doanh của tổ chức tín dụng. Thanh tra hoạt động của công ty mua - bán nợ trực thuộc tổ chức tín dụng; phối hợp với bộ, ngành liên quan thanh tra hoạt động của công ty chứng khoán trực thuộc tổ chức tín dụng; xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm; công khai đưa lên trang tin điện tử của NHNN đối với những vi phạm phải xử lý của các tổ chức tín dụng.
Cắt giảm đầu cư công, giảm bội chi xuống dưới 5%
Về chính sách tài chính - ngân sách cũng với chủ trương điều hành thắt chặt, tăng thu giảm chi.
Đối với chính sách thuế cần tăng cường công tác quản lý thu NSNN, chống thất thu, nợ đọng thuế, phấn đấu tăng khoảng 7-8% so với dự toán Quốc hội thông qua. Chi tiêu ngân sách cần siết chặt, Bộ Tài chính yêu cầu các bộ, ngành, địa phương tiết kiệm thêm 10% chi thường xuyên của 9 tháng còn lại trong năm 2011 (trừ chi lương, chi chế độ chính sách cho con người,...); tạm dừng trang bị mới xe ô-tô, điều hòa, thiết bị văn phòng; giảm tối đa số lượng và quy mô các hội nghị, hội thảo, hạn chế các đoàn công tác sử dụng kinh phí NSNN, thực hiện tiết kiệm tối đa điện, nước, điện thoại, văn phòng phẩm, xăng dầu,...
Một trong giải pháp quan trọng, đột biến lần này là Chính phủ tỏ ra cứng rắn, quyết liệt đối với vấn đề đầu tư công, đầu tư từ nguồn trái phiếu Chính phủ. Trong năm 2011, rà soát, sắp xếp lại chi đầu tư công (cả vốn NSNN, trái phiếu Chính phủ, tín dụng đầu tư và đầu tư của DNNN: Thứ nhất, không kéo dài thời gian thực hiện các khoản vốn đầu tư từ Ngân sách Nhà nước, trái phiếu Chính phủ kế hoạch năm 2011; thu hồi về ngân sách Trung ương để bổ sung vốn cho các dự án, công trình hoàn thành trong năm 2011.
Thứ hai, không ứng trước vốn NSNN, trái phiếu Chính phủ năm 2012, trừ các dự án phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai cấp bách. Các Bộ, cơ quan, địa phương rà soát để điều chuyển vốn đầu tư từ NSNN và trái phiếu Chính phủ năm 2011 trong phạm vi quản lý để tập trung vốn đẩy nhanh tiến độ các công trình, dự án quan trọng, cấp bách, hoàn thành trong năm 2011. Không khởi công các công trình, dự án mới, trừ các dự án phòng chống, khắc phục hậu quả thiên tai cấp bách và các dự án trọng điểm quốc gia.
Thứ ba, giảm tối thiểu 10% tổng mức đầu tư từ nguồn vốn tín dụng nhà nước. Kiểm tra, rà soát lại đầu tư của các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước để xử lý, loại bỏ các dự án đầu tư kém hiệu quả, đầu tư dàn trải, kể cả các dự án đầu tư ra nước ngoài. Trên cơ sở phấn đấu tăng thu, tiết kiệm chi, giảm bội chi ngân sách năm 2011 từ mức 5,3%GDP Quốc hội quyết định xuống mức dưới 5%GDP, đảm bảo dư nợ công trong giới hạn an toàn.
Đối với chính sách thương mại, xem xét miễn, giảm thuế, gia hạn thời gian nộp thuế nguyên liệu đầu vào nhập khẩu phục vụ sản xuất xuất khẩu đối với những ngành hàng trong nước còn thiếu nguyên liệu như dệt may, da giầy, thủy sản, hạt điều, gỗ, dược phẩm... tiếp tục tạm hoàn thuế giá trị gia tăng đầu vào đối với hàng hóa thực phẩm xuất khẩu trong năm 2011. Rà soát để giảm thuế đối với các mặt hàng là nguyên liệu đầu vào trong nước chưa sản xuất được; nghiên cứu tăng thuế xuất khẩu lên mức phù hợp đối với các mặt hàng không khuyến khích xuất khẩu, tài nguyên, nguyên liệu thô.
Điều hành bảo đảm ngoại tệ cho nhập khẩu hàng hóa thiết yếu cho sản xuất. Hạn chế cho vay, đồng thời sử dụng các biện pháp hàng rào kỹ thuật để hạn chế nhập khẩu các mặt hàng không thiết yếu, xa xỉ. Chỉ đạo huy động tối đa công suất các nhà máy điện, sử dụng điện tiết kiệm (phấn đấu tiết kiệm 10%), phân bổ hợp lý để bảo đảm đáp ứng cho các nhu cầu thiết yếu của sản xuất và đời sống nhân dân. Thực hiện nghiêm chủ trương sử dụng hàng hóa, vật tư, thiết bị sản xuất trong nước, đặc biệt là hàng hóa cho các dự án đầu tư bằng các nguồn vốn của Nhà nước để khuyến khích sản xuất trong nước, giảm nhập siêu.
Kiểm soát chặt chẽ thị trường giá cả
Nguyên tắc điều hành theo tín hiệu thị trường có sự quản lý của Nhà nước, thực hiện mục tiêu: Kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội. Từng bước xóa bao cấp, hạn chế thấp nhất tác động đến sản xuất - kinh doanh, đời sống xã hội; điều chỉnh giá từng bước theo thị trường nhằm không gây đảo lộn nền kinh tế, không gây "sốc".
Đến nay, nhiều mặt hàng về cơ bản đã theo nguyên tắc thị trường; tuy nhiên, vẫn còn một số mặt hàng như điện, xăng, dầu các doanh nghiệp chưa được phép tính đủ các chi phí đầu vào, vẫn còn bao cấp qua giá cho toàn xã hội, khiến cho các doanh nghiệp kinh doanh trong các lĩnh vực này gặp khó khăn (thua lỗ), làm méo mó hệ thống giá chung và hạch toán kinh tế của các ngành. Trong năm 2011, thực hiện điều chỉnh một bước để xóa bao cấp, không làm đảo lộn kinh tế vĩ mô tác động xấu đến kinh tế - xã hội; đồng thời, thực hiện chính sách an sinh xã hội. Cụ thể:
Đối với giá điện, với giá điện hiện hành, tính đến hết năm 2010 các chi phí chưa tính đủ vào giá điện còn treo (lỗ) khoảng gần 28.000 tỷ đồng. Nếu tính đủ các chi phí đầu vào thì giá điện bình quân phải tăng 62%. Tuy nhiên, trong năm 2011 chỉ điều chỉnh tăng một phần trên nguyên tắc: Nhà nước lùi 90% khấu hao (chỉ tính vào cơ cấu giá 10% khấu hao), Tạm thời chưa tính lãi ngành điện; Chưa thu phí dịch vụ môi trường rừng đối với các nhà máy thủy điện; Tạm "khoanh" lỗ đến 31/12/2010. Giá than bán cho điện hiện nay chỉ bằng khoảng 44-48% so với giá thành và 29-32% giá xuất khẩu, nhưng lần này chỉ điều chỉnh tăng 5%. Trên cơ sở đó, trước mắt điều chỉnh giá điện tăng bình quân 165 đồng/KWh (tương ứng tăng 15,28%), bằng 24,7% mức phải điều chỉnh.
Đối với giá xăng, dầu, giá xăng dầu đã thực hiện theo nguyên tắc thị trường từ cuối năm 2009 theo Nghị định số 84/2009/NĐ-CP của Chính phủ. Tuy nhiên, từ giữa năm 2010 đã dừng không điều chỉnh trong khi giá xăng dầu thế giới tăng 29% (giá dầu thô hiện đã trên 110 USD/thùng)
Để ổn định giá trong nước trong điều kiện giá thế giới tăng, Nhà nước đã 6 lần lùi thuế nhập khẩu từ 20% xuống 0% (ước giảm thu khoảng trên 10.000 tỷ đồng), đồng thời cho sử dụng 6.400 tỷ đồng từ Quỹ Bình ổn giá để bù giá vốn cho doanh nghiệp kinh doanh xăng, dầu. Giá xăng, dầu của Việt Nam thấp hơn Lào, Campuchia, Trung Quốc, Thái Lan, Singapore từ 6.100-8.600 đồng/lít, gây ra tình hình buôn lậu xăng dầu qua biên giới. Do giá xăng, dầu thế giới tiếp tục ở mức cao, trong khi tiềm lực tài chính hiện không còn: Thuế đã giảm về 0%, Quỹ Bình ổn giá đã sử dụng hết, nên cần thiết phải điều chỉnh giá. Nếu tính đủ chi phí, tính đủ thuế theo quy định thì phải điều chỉnh giá xăng, dầu tăng thêm từ 34-45%, tùy từng mặt hàng (ví dụ: Xăng phải điều chỉnh tăng thêm 6.500 đồng/lít). Đây là mức tăng quá cao, do đó trước mắt điều chỉnh một bước nhằm giảm bao cấp theo nguyên tắc: Nhà nước không thu thuế nhập khẩu (thuế nhập khẩu bằng 0%); Doanh nghiệp tạm thời chưa tính lãi; Chưa xử lý số lỗ cũ.
Theo đó, điều chỉnh giá xăng, dầu tăng thêm từ 16-24%, bằng khoảng 45-57% mức phải điều chỉnh (giá xăng tăng 2.900 đồng/lít so với mức phải điều chỉnh 6.500 đồng/lít). Với mức giá sau khi điều chỉnh như trên, giá xăng, dầu trong nước vẫn còn thấp hơn giá xăng, dầu của một số nước trong khu vực (ví dụ xăng thấp hơn Lào khoảng 5.000 đồng/lít; Campuchia 4.000 đồng/lít, Trung Quốc 3.200 đồng/lít).
Với mức điều chỉnh giá điện, xăng, dầu như trên, mới giảm bao cấp được một phần (với điện giảm bao cấp khoảng 1/4 (24,7%); với xăng, dầu giảm khoảng 1/2). Như vậy, sẽ phải tiếp tục điều hành giảm bao cấp theo thị trường đối với giá xăng, dầu trong năm 2011, giá điện đến hết năm 2012 mới thực hiện được theo cơ chế thị trường.
Thành Long