Nhân kỷ niệm 20 năm ngày thành lập KTNN (11/7/1994-11/7/2014), GS.TS Đoàn Xuân Tiên, Phó Tổng KTNN, Trưởng Ban Trưởng ban xây dựng Kế hoạch chiến lược phát triển KTNN đã dành cho Tạp chí NCKHKT cuộc trò chuyện xoay quanh nội dung về công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ và nghiên cứu khoa học của KTNN. Trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.
* Thưa GS, chỉ còn chưa đầy một tháng nữa là KTNN kỷ niệm 20 năm ngày thành lập. Nhìn lại chặng đường đã qua, có thể nói KTNN đã có những bước tiến vững chắc và toàn diện, trong đó phải kể đến những đóng góp của công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ (ĐTBDCB) và công tác nghiên cứu khoa học (NCKH). Là người đã có sự gắn bó với hai mảng công tác này tại KTNN, những đánh giá, ghi nhận của GS về những thành tựu của hai mảng công tác này trong thời gian qua?
- Có thể nói công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức trong 20 năm qua của KTNN đã có nhiều đổi mới rõ rệt cả về lượng và về chất góp phần nâng cao năng lực đội ngũ, nhất là đội ngũ KTV, từng bước đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ. Những kết quả nổi bật của công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức Kiểm toán Nhà nước trong 20 năm qua được thể hiện trên những mặt sau:
Thứ nhất, về chương trình, tài liệu đào tạo, bồi dưỡng.
Đến nay, Kiểm toán Nhà nước đã xây dựng và có 05 bộ chương trình, tài liệu đào tạo, bồi dưỡng các ngạch KTVNN, chương trình bồi dưỡng lãnh đạo cấp phòng, chương trình đào tạo căn bản về kiểm toán hoạt động. Điểm nổi bật của các chương trình, tài liệu bồi dưỡng hiện nay là, bên cạnh việc xây dựng nội dung học gắn với thực tiễn hoạt động của ngành, rút ngắn thời gian học và tăng cường thời lượng thực hành, tài liệu còn được xây dựng theo 2 loại đối tượng theo chuyên môn đào tạo, đó là công chức thuộc khối ngành kinh tế và công chức thuộc khối ngành kỹ thuật.
Thứ hai, về xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng.
Công tác xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng từng bước được đổi mới, thể hiện qua việc xác định nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng ngày càng sát hơn với thực tiễn công việc, xác định rõ nhu cầu của công chức để thiết kế chương trình, tài liệu phù hợp và xác định rõ thời gian tổ chức các khóa đào tạo, bồi dưỡng để các đơn vị có thể chủ động, bố trí công chức tham gia các khóa học để đảm bảo quyền lợi cho công chức. Sau 20 năm hoạt động, KTNN đã xây dựng 04 bản kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng trung hạn (2001 -2005, 2006-2010, 2011-2015, 2013- 2017) và 20 kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng năm.
Thứ ba, về xây dựng đội ngũ giảng viên của ngành.
Trong 20 năm qua, song song với việc tập trung để xây dựng một bộ chương trình, tài liệu đào tạo, bồi dưỡng hoàn thiện, KTNN luôn luôn quan tâm đến việc xây dựng đội ngũ giảng viên đủ về số lượng và đảm bảo về chất lượng. Hiện nay, số lượng giảng viên của KTNN gồm 87 người, trong đó có 02 giảng viên cơ hữu, 85 giảng viên thỉnh giảng.
Thứ tư, về kết quả đào tạo, bồi dưỡng. Trong 20 năm qua, đối với đào tạo các ngạch KTVNN, KTNN đã tổ chức được 50 lớp cho 3.820 lượt; Bồi dưỡng kiến thức quốc phòng - an ninh (từ 2004 đến nay): 264 lượt; Tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ của ngành và đơn vị: gần 1000 lớp cho hơn 51.000 lượt công chức; Bồi dưỡng cao cấp lý luận chính trị: 207 lượt; Đào tạo về tin học: Mở 115 lớp cho 3.932 lượt công chức; Đào tạo về ngoại ngữ: 256 lượt công chức.
Thứ năm, về học tập, nghiên cứu, khảo sát ở nước ngoài và các khóa đào tạo theo dự án tài trợ của nước ngoài tại Việt Nam.
Với sự trợ giúp của một số cơ quan và tổ chức quốc tế, hàng nghìn lượt cán bộ, KTV đã tham dự nhiều lớp đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin học ở nước ngoài hoặc do chuyên gia nước ngoài giảng dạy tại Việt Nam. Đến nay, KTNN đã cử 44 KTV đầu tiên tham gia các khoá đào tạo và thi lấy Chứng chỉ KTV quốc tế của Hiệp hội Kế toán viên công chứng Vương quốc Anh (ACCA) và của Hội Kế toán công chứng Úc (CPA Australia) và 10 KTV đào tạo và thực hành kiểm toán dài hạn theo chương trình chuyên gia kiểm toán CCAF tại Canada.
Thứ sáu, về cơ sở vật chất đã từng bước được xây dựng và ưu tiên kinh phí nhiều hơn cho đào tạo, bồi dưỡng. Nếu như năm đầu tiên khi thành lập, kinh phí đào tạo của KTNN là 20 triệu đồng thì năm 2005 là 580 triệu đồng (tăng 29 lần so với năm 1994), năm 2014 là 9.600 triệu đồng (tăng 16,55 lần so với 2005). Ngoài ra, từ tháng 5/2011, Chi nhánh đào tạo Cửa Lò (Nghệ An) trực thuộc Trung tâm Khoa học và Bồi dưỡng cán bộ được khánh thành và đi vào hoạt động giúp cho việc tổ chức các khóa đào tạo, bồi dưỡng của KTNN được hiệu quả hơn rất nhiều.
Về công tác nghiên cứu khoa học. Với phương châm “vừa nghiên cứu vừa triển khai áp dụng”, hoạt động nghiên cứu khoa học của KTNN chú trọng cả nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng nhằm giải quyết các vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra và áp dụng kinh nghiệm quốc tế vào điều kiện hoạt động thực tiễn ở Việt Nam. Từ năm 1996 - 2013, KTNN đã thực hiện tổng cộng 295 đề tài các cấp, trong đó bao gồm 02 đề tài cấp Nhà nước, 146 đề tài cấp Bộ và 147 đề tài cấp cơ sở. Có thể đánh giá khái quát hoạt động nghiên cứu khoa học ở một số khía cạnh sau:
Một là, về cơ bản, các đề tài nghiên cứu hoàn thành với kết quả đánh giá tương đối tốt, đặc biệt trong giai đoạn 1996-2005. Cụ thể, đề tài cấp Nhà nước đạt kết quả xuất sắc, khoảng 30% đề tài đạt kết quả, 60% đề tài đạt loại khá và 10% đề tài đạt yêu cầu.
Hai là, các đề tài đã tiếp cận và nghiên cứu chuyên sâu về các lĩnh vực kiểm toán mới như: kiểm toán hoạt động, kiểm toán chuyên đề, kiểm toán lồng ghép, kiểm toán trong môi trường tin học…
Ba là, trong giai đoạn đầu khi mới thành lập, các đề tài NCKH của KTNN hầu hết tập trung vào nghiên cứu cơ bản để cung cấp những luận cứ khoa học cho hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ. Nhưng trong thời gian gần đây, hướng nghiên cứu của các đề tài đang chuyển dần sang nghiên cứu ứng dụng để đáp ứng yêu cầu ngày càng phát triển của ngành KTNN.
* Vậy theo GS, đâu là những tồn tại ở 2 nội dung này mà KTNN cần phải khắc phục trong bối cảnh hiện nay?
- Bên cạnh những kết quả đạt được ở 2 mảng công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ và nghiên cứu khoa học như tôi đã đề cập ở trên, 2 nhiệm vụ này cũng còn nhiều việc cần tiếp tục phải hoàn thiện. Đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Thứ nhất, chương trình tài liệu đào tạo, bồi dưỡng chưa đồng bộ, còn thiếu nhiều, nhất là chương trình, tài liệu về đào tạo kỹ năng kiểm toán theo từng cấp độ, các chương trình bồi dưỡng chuyên sâu theo từng lĩnh vực kiểm toán và chương trình, tài liệu về kiểm toán hoạt động - lĩnh vực mà trong giai đoạn hiện nay toàn ngành đang tập trung chỉ đạo thực hiện,…
Thứ hai, đội ngũ giảng viên có kinh nghiệm thiếu rất nhiều, nhất là giảng viên cơ hữu; đội ngũ giảng viên kiêm chức của KTNN còn bị hạn chế về việc tuân thủ những quy trình cần thiết đảm bảo tính sư phạm của một quá trình đào tạo (như chuẩn bị giáo án, bài giảng, khả năng truyền tải kiến thức cho học viên...).
Thứ ba, điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị, kinh phí và năng lực quản lý đào tạo, bồi dưỡng ở KTNN còn hạn chế.
Hiện tại, Trung tâm KH&BDCB chưa có trụ sở và phòng học riêng tại Hà Nội, đồng thời kinh phí đào tạo cũng hạn chế, điều này ảnh hướng lớn đến việc mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng cả về chất lượng và số lượng. Ngoài ra, trong quản lý điều hành công tác đào tạo, bồi dưỡng cũng có những hạn chế như: Sự phối hợp giữa các bộ phận quản lý đào tạo còn chồng chéo do đó khi các bộ phận quản lý triển khai thực hiện còn gặp nhiều lúng túng và bị động; nên việc quản lý và điều hành cũng mang tính chất hình thức, chưa thật sự chặt chẽ, sâu sát; năng lực tổ chức thực hiện của Trung tâm còn yếu.
Đối với công tác nghiên cứu khoa học: Về chất lượng hoạt động NCKH: Vẫn còn một số đề tài chất lượng mới chỉ đạt yêu cầu. Các đề tài này mới chỉ đáp ứng được một cách cơ bản nhất các mục tiêu nghiên cứu mà chưa có sự đào sâu nghiên cứu, một số vấn đề chưa được giải quyết thoả đáng.
Về tiến độ thực hiện nhiệm vụ NCKH: Vẫn có những đề tài triển khai nghiên cứu còn chậm về tiến độ (đặc biệt trong giai đoạn 2006 - 2011), ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng nghiên cứu đề tài cũng như chất lượng hoạt động nghiệm thu đánh giá kết quả nghiên cứu.
Về tính khả thi của hoạt động NCKH: Một số đề tài chưa mang tính khả thi cao. Các giải pháp và lộ trình mà các đề tài đưa ra còn quá chung chung, chưa sát với thực tế của đơn vị.
Về tính thời sự của các nhiệm vụ NCKH: Các nhiệm vụ NCKH của KTNN đều hướng tới mục đích là định hướng, dẫn dắt cho hoạt động thực tiễn. Tuy nhiên, trong thực tế, một số hoạt động thực tiễn đã khá phổ biến nhưng do chưa có những hướng dẫn cụ thể nên không đồng nhất trong phương pháp thực hiện cũng như mẫu biểu báo cáo.
Về khả năng đáp ứng yêu cầu cung cấp luận cứ khoa học phục vụ quá trình xây dựng và phát triển KTNN: Hiện nay thực tế phát sinh rất nhiều vấn đề đòi hỏi phải được giải quyết một cách khoa học. Tuy nhiên, nghiên cứu khoa học của KTNN vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu là cung cấp các luận cứ khoa học để giải quyết các vấn đề này một cách triệt để.
Về đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học: Đội ngũ cán bộ chuyên trách khoa học còn hạn chế cả về số lượng và chất lượng, ít kinh nghiệm thực tế nên có những hạn chế nhất định trong công tác nghiên cứu. Hoạt động nghiên cứu khoa học vẫn chủ yếu sử dụng lực lượng kiêm nhiệm là các cán bộ quản lý trong ngành.
* Trong Kế hoạch Chiến lược phát triển KTNN giai đoạn 2013 - 2017, KTNN đã xác định 8 vấn đề chính cần quan tâm, trong đó nội dung đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức, kiểm toán viên được nhìn nhận là quan trọng. Với tư cách là Trưởng ban xây dựng Kế hoạch chiến lược, GS có thể làm rõ hơn về nội dung này trong việc triển khai Kế hoạch hành động thực hiện Chiến lược phát triển KTNN đến năm 2020?
- Kế hoạch Chiến lược phát triển KTNN giai đoạn 2013 - 2017, KTNN đã xác định 8 vấn đề chính cần quan tâm. Nội dung đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức KTV nằm trong mục đích chiến lược 2, trong đó các nội dung cần triển khai cụ thể bao gồm: (1) Xây dựng và thực hiện Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng trung hạn của KTNN giai đoạn 2014 - 2017. Nội dung này đã hoàn thành trong năm 2013 và ngày 05/12/2013, Tổng KTNN đã ký Quyết định số 1333/QĐ-KTNN về việc ban hành Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng công chức KTNN giai đoạn 2014 – 2017; (2) Hoàn thiện hệ thống chương trình, tài liệu đào tạo, bồi dưỡng, bao gồm: (i) Chương trình đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng kiểm toán theo từng cấp độ; (ii) Chương trình, tài liệu bồi dưỡng kiến thức cơ bản bổ trợ về tài chính, ngân sách, kế toán, kiểm toán cho công chức chưa học ở bậc đại học; (iii) Chương trình, tài liệu bồi dưỡng chuyên sâu từng lĩnh vực kiểm toán (ngân sách, đầu tư, doanh nghiệp, tài chính - ngân hàng) cùng bài tập tình huống;(iv) Tài liệu bồi dưỡng về kiểm soát chất lượng kiểm toán;(v) Chương trình, tài liệu đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu về kiểm toán hoạt động; (vi) Tài liệu bồi dưỡng về chuẩn mực kiểm toán và phương pháp kiểm toán dựa trên đánh giá rủi ro; (vii) Tài liệu bồi dưỡng về công tác xây dựng kế hoạch kiểm toán; (viii) Tài liệu bồi dưỡng đối với cán bộ quản lý lãnh đạo cấp phòng; (ix) Tài liệu đào tạo, bồi dưỡng kiểm toán trong môi trường CNTT... Hiện nay, các chương trình, tài liệu này đang được triển khai xây dựng theo tiến độ đã xác định trong Kế hoạch Chiến lược.
Bên cạnh đó còn có các nội dung như: Xây dựng và thực hiện kế hoạch đào tạo hàng năm của giai đoạn 2014 - 2017. Kế hoạch đào tạo hàng năm phải bám sát mục tiêu, định hướng trung hạn của Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng công chức KTNN giai đoạn 2014-2017 và sát với nhu cầu thực tiễn của ngành, đảm bảo các tiêu chí của kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng năm (số lớp, đối tượng tham gia, lịch tổ chức các khóa học, kinh phí, địa điểm…); Hoàn thiện hệ thống văn bản về đào tạo, bồi dưỡng của KTNN. Năm 2013, KTNN đã hoàn thành sửa đổi, bổ sung Quy chế thi và cấp chứng chỉ KTVNN. Hiện nay, đang sửa đổi Quy chế đào tạo, bồi dưỡng công chức của KTNN; Xây dựng đội ngũ giảng viên theo hướng tăng cường số lượng và chất lượng...
* Ngày 05/6/2014, Tổng KTNN Nguyễn Hữu Vạn đã ký Quyết định ban hành Đề án đổi mới tổ chức và hoạt động của Trung tâm KH và BDCB, trong đó nhấn mạnh tới việc Trung tâm phấn đấu phát triển thành một cơ sở đào tạo, bồi dưỡng và nghiên cứu khoa học tiên phong, chuyên nghiệp, có uy tín đáp ứng yêu cầu phát triển KTNN trở thành tổ chức kiểm toán tối cao có uy tín trong nước và trên thế giới. Đây có thể coi là cơ sở quan trọng cho việc hiện thực hóa nội dung thành lập Trường Đào tạo và Bồi dưỡng Cán bộ Kiểm toán và Viện Nghiên cứu Khoa học Kiểm toán theo Chiến lược phát triển KTNN đến năm 2020. Và để thực hiện thành công Đề án này, Trung tâm KH và BDCB cần có những hành động cụ thể nào hơn nữa thưa GS?
- Trung tâm KH và BDCB được thành lập theo Quyết định số 142/TTg ngày 10/3/1997 của Thủ tướng Chính phủ. Qua 17 năm hình thành và phát triển, bên cạnh những kết quả đã đạt được thì hoạt động của Trung tâm KH và BDCB còn rất nhiều những hạn chế, tồn tại. Để thực hiện đổi mới tổ chức và hoạt động của Trung tâm KH và BDCB có hiệu quả, tiến tới thành lập Trường Đào tạo và Bồi dưỡng cán bộ kiểm toán và Viện Nghiên cứu Khoa học Kiểm toán, Trung tâm KH và BDCB cần tập trung vào các giải pháp sau:
Thứ nhất, cần xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của Trung tâm KH và BDCB. Theo đó, Trung tâm có hai chức năng, nhiệm vụ chính là hoạt động phục vụ ngành và hoạt động sự nghiệp có thu
Thứ hai, thực hiện giải pháp về nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy và xây dựng đội ngũ của Trung tâm.
Về tổ chức bộ máy: Bộ máy của Trung tâm gồm Ban Giám đốc và 07 bộ phận trực thuộc. Về định biên của Trung tâm: Tổng định biên cho Trung tâm năm 2014 gồm có 78 người, trong đó có 54 công chức, viên chức hưởng lương từ NSNN và 24 viên chức, người lao động hưởng lương từ hoạt động thu sự nghiệp; Rà soát, đánh giá lại công chức, viên chức và người lao động của Trung tâm để bố trí, sắp xếp nhân sự vào vị trí phù hợp; kiện toàn đội ngũ lãnh đạo cấp phòng; Tăng cường năng lực chuyên môn cho đội ngũ nhân sự phục vụ công tác đào tạo, nghiên cứu khoa học; Thành lập các tổ phục vụ tại Chi nhánh Đào tạo Cửa Lò.
Thứ ba, thực hiện giải pháp đổi mới hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện đồng bộ hệ thống tài liệu giảng dạy; Xây dựng và triển khai thực hiện các chương trình đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ làm công tác tài chính, kế toán trong khu vực công có liên quan đến hoạt động KTNN; Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên cơ hữu và giảng viên thỉnh giảng; Đổi mới công tác quản lý, điều hành, tổ chức đào tạo...
Thứ tư là giải pháp đổi mới công tác quản lý và nghiên cứu khoa học:
Xây dựng bộ máy hoạt động trong lĩnh vực khoa học đảm bảo tinh gọn và hoạt động có hiệu quả; Nghiên cứu áp dụng cơ chế đấu thầu thực hiện các nhiệm vụ KHCN để từng bước nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác NCKH của KTNN; Tăng cường công tác giám sát quá trình tổ chức thực hiện NCKH; thường xuyên kiểm tra, đôn đốc tiến độ và kết quả nghiên cứu.
Thứ năm, thực hiện giải pháp đổi mới Tạp chí Nghiên cứu Khoa học Kiểm toán. Tăng cường chất lượng các bài viết; Tăng cường chất lượng thông tin về hoạt động kiểm toán của KTNN; Tăng cường quản lý đối với đối tác thực hiện khai thác hợp đồng quảng cáo cho Tạp chí để đảm bảo nguồn thu phục vụ hoạt động chuyên môn.
Thứ sáu là việc nâng cao hiệu quả công tác quản lý, điều hành hoạt động của Lãnh đạo Trung tâm. Cải cách hành chính, đảm bảo quá trình thực hiện công việc gọn nhẹ, hoạt động thông suốt. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý tài chính kế toán, quản lý nhân sự và các mặt công tác khác của Trung tâm KH và BDCB.
Thứ bảy là cơ chế tài chính của Trung tâm: là cơ chế tài chính của đơn vị sự nghiệp có thu tự chủ một phần kinh phí theo quy định tại Nghị định 43/2006/NĐ-CP của Chính phủ.
Để thực hiện thành công Đề án Đề án đổi mới tổ chức và hoạt động của Trung tâm KH và BDCB, trước hết bản thân Trung tâm cần nỗ lực, cố gắng hết mình trên cơ sở các giải pháp đã đặt ra để thực hiện đổi mới tổ chức và hoạt động của Trung tâm. Ngoài ra, các đơn vị trong ngành có liên quan trực tiếp đến Trung tâm như Vụ Tổ chức Cán bộ và Văn phòng KTNN cũng như các đơn vị khác cần có trách nhiệm hỗ trợ, phối hợp với Trung tâm trong quá trình triển khai thực hiện Đề án./.