Trải qua 20 năm xây dựng và phát triển Kiểm toán Nhà nước(KTNN), công tác nghiên cứu và thông tin khoa học đã có những đóng góp quan trọng và có ý nghĩa thiết thực đối với hoạt động của Ngành.
Khi mới thành lập (năm 1994), kiểm toán nói chung và KTNN nói riêng là lĩnh vực còn rất mới tại Việt Nam cho nên KTNN đã thực hiện phương châm “vừa nghiên cứu vừa triển khai áp dụng” theo kiểu “vừa đi vừa xếp hàng”. Chính vì vậy, hoạt động nghiên cứu và thông tin khoa học của KTNN đã chú trọng cả nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng nhằm giải quyết các vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra và áp dụng các kinh nghiệm quốc tế vào điều kiện hoạt động thực tiễn của Việt Nam.
KTNN ra đời trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam chuyển từ nền kinh tế vận hành theo cơ chế kế hoạch tập trung, bao cấp sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. KTNN là cơ quan được thành lập mới, không có cơ quan tiền thân, do đó, KTNN phải tự hoàn thiện về cơ cấu tổ chức bộ máy, phương pháp chuyên môn, nghiệp vụ và tổng kết, đúc rút những bài học kinh nghiệm từ các KTNN khu vực và thế giới. Chính vì vậy, hoạt động nghiên cứu khoa học và thông tin khoa học trong những năm vừa qua đã có vai trò hết sức quan trọng trong việc xây dựng cơ sở lý luận và đúc rút kinh nghiệm thực tiễn góp phần vào quá trình xây dựng và phát triển KTNN. Kết quả nghiên cứu khoa học (NCKH) các đề tài của KTNN trong thời gian qua đã góp phần tích cực vào việc xây dựng khuôn khổ pháp lý cho tổ chức, hoạt động, kế hoạch và chiến lược phát triển của ngành, hoàn thiện mô hình tổ chức bộ máy, cơ chế hoạt động, xây dựng các chuẩn mực, quy trình, phương pháp kiểm toán và quản lý chất lượng kiểm toán.
Công tác NCKH và thông tin khoa học của KTNN trong 20 năm qua có thể được đánh giá khái quát ở một số nội dung sau đây:
1. Hoạt động nghiên cứu khoa học
Hoạt động nghiên cứu khoa học của KTNN trong 20 năm qua bao gồm: Nghiên cứu các đề tài cấp Nhà nước, đề tài cấp Bộ, cấp cơ sở; nghiên cứu các chương trình khoa học và nghiên cứu các chuyên đề. KTNN chính thức được công nhận là một đầu mối kế hoạch khoa học và công nghệ (KH&CN) từ năm 1996. Từ đó cho đến nay, KTNN đã thực hiện tổng cộng 295 đề tài các cấp trong đó bao gồm 2 đề tài cấp Nhà nước, 146 đề tài cấp Bộ và 147 đề tài cấp cơ sở. Phần lớn kết quả nghiên cứu của các đề tài đều được ứng dụng vào thực tiễn hoạt động của KTNN. Có thể đánh giá khái quát hoạt động NCKH ở một số khía cạnh sau đây:
Về chất lượng hoạt động nghiên cứu khoa học: Về cơ bản, các đề tài nghiên cứu đã hoàn thành mục tiêu, nội dung nghiên cứu và được đánh giá tương đối tốt, đặc biệt trong giai đoạn 1996-2005. Cụ thể, đề tài cấp Nhà nước và khoảng 30% đề tài các cấp đạt kết quả xuất sắc, 60% đề tài đạt loại khá và 10% đề tài đạt yêu cầu. Các đề tài đã tiếp cận và nghiên cứu chuyên sâu về các lĩnh vực kiểm toán mới như: Kiểm toán hoạt động, kiểm toán chuyên đề, kiểm toán lồng ghép, kiểm toán trong môi trường công nghệ thông tin … Kết quả nghiên cứu của các đề tài nhất là phần đúc rút kinh nghiệm từ các cơ quan KTNN của các nước trên thế giới đã giúp các đoàn kiểm toán có một số cách tiếp cận mới trong hoạt động kiểm toán, từ đó được áp dụng phù hợp với thực tiễn của KTNN Việt Nam(được thể hiện ở bảng sau).
Bảng Tổng hợp kết quả NCKH các đề tài của KTNN 1994-2013
Năm | Cấp Nhà nước | Cấp Bộ | Cấp Cơ sở |
Tổng số | Nghiệm thu | Tổng số | Nghiệm thu | Tổng số | Nghiệm thu |
1996 | - | - | 3 | 3 | - | - |
1997 | - | - | 4 | 4 | | |
1998 | - | - | 4 | 4 | - | - |
1999 | - | - | 6 | 6 | - | - |
2000 | - | - | 4 | 4 | 9 | 9 |
2001 | - | - | 6 | 6 | 12 | 12 |
2002 | - | - | 7 | 7 | 9 | 9 |
2003 | - | - | 10 | 10 | 10 | 10 |
2004 | 1 | 1 | 10 | 9 | 10 | 9 |
2005 | - | - | 11 | 10 | 14 | 13 |
2006 | - | - | 12 | 6 | 11 | 7 |
2007 | 1 | - | 14 | 8 | 14 | 10 |
2008 | - | - | 12 | 7 | 14 | 11 |
2009 | - | - | 10 | 4 | 11 | 8 |
2010 | - | - | 12 | 12 | 10 | 4 |
2011 | - | - | 7 | 7 | 9 | 9 |
2012 | - | - | 8 | - | 7 | 7 |
2013 | - | - | 6 | - | 7 | - |
Tổng số | 2 | 1 | 146 | 107 | 147 | 118 |
Nguồn: Trung tâm KH & BDCB
Về tiến độ thực hiện hoạt động nghiên cứu khoa học: Phần lớn các đề tài thực hiện tương đối đúng tiến độ. Tuy nhiên, vẫn còn những đề tài triển khai nghiên cứu còn chậm, nhất là giai đoạn 2006-2010, số lượng đề tài quá hạn tăng lên, do đó đã ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng nghiên cứu đề tài cũng như công tác nghiệm thu, đánh giá kết quả nghiên cứu cũng như việc áp dụng kết quả nghiên cứu vào thực tiễn hoạt động của KTNN.
Về đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học: Mặc dù có rất nhiều cố gắng trong chính sách tuyển dụng, đào tạo và bồi dưỡng nhân lực nhưng hiện nay ở KTNN đội ngũ cán bộ chuyên trách khoa học còn rất hạn chế cả về số lượng và chất lượng, đặc biệt là thiếu về số lượng cán bộ nghiên cứu khoa học chuyên trách. Hoạt động NCKH của KTNN vẫn chủ yếu là lực lượng kiêm nhiệm là các cán bộ quản lý trong ngành, các kiểm toán viên tại các đơn vị trực thuộc KTNN. Trong khi đó, để đáp ứng được đà phát triển của cơ quan KTNN đòi hỏi phải có một đội ngũ nghiên cứu đủ mạnh, đủ về số lượng, với cơ cấu chuyên môn hợp lý và chất lượng tốt. Có thể nói rằng, số lượng và chất lượng đội ngũ cán bộ NCKH hiện nay đang là một trong những hạn chế đáng kể đối với hoạt động nghiên cứu khoa học của KTNN .
2. Hoạt động thông tin khoa học và hợp tác quốc tế trong lĩnh vực KH&CN
Hoạt động thông tin khoa học và công nghệ của KTNN gắn liền với công tác nghiên cứu khoa học và triển khai ứng dụng kết quả nghiên cứu.
Báo Kiểm toán (trước đây là Tạp chí Kiểm toán) và Tạp chí Nghiên cứu Khoa học Kiểm toán ( từ năm 2007) là hai diễn đàn, kênh trao đổi thông tin khoa học trong lĩnh vực kinh tế, tài chính nói chung và kiểm toán nói riêng; cung cấp thông tin về hoạt động kiểm toán, kết quả kiểm toán tới bạn đọc trong và ngoài ngành.
Kết quả NCKH, tóm tắt các đề tài khoa học các cấp đã được nghiệm thu được lưu trữ, quản lý và phục vụ tốt cho các đối tượng trong và ngoài KTNN qua hệ thống Thư viện Khoa học kiểm toán (đặt tại Trung tâm Khoa học và Bồi dưỡng Cán bộ - TT KH), mạng nội bộ đặc biệt là trang Thông tin Điện tử của KTNN. Ngoài ra, còn có tờ “Thông tin Khoa học” phát hành nội bộ trong cơ quan KTNN, phát hành mỗi quý một số để thông báo các kết quả nghiệm thu đề tài NCKH và các lớp bồi dưỡng cán bộ kiểm toán trong ngành, các lớp đào tạo, tư vấn về kế toán, kiểm toán, kinh nghiệm quản lý, tài chính, thông tin về tài chính, kế toán, kiểm toán trong và ngoài nước.
Hoạt động thông tin khoa học đã khai thác và thu thập thông tin KH&CN từ các nguồn trong và ngoài nước, trong nội bộ ngành; xử lý, lưu trữ và quản lý nguồn thông tin KH&CN; phát hành các ấn phẩm khoa học làm diễn đàn nghiên cứu, trao đổi của các nhà khoa học, các nhà quản lý, các chuyên gia trong và ngoài ngành; cung cấp thông tin KH&CN phục vụ hoạt động chuyên môn nghiệp vụ và các hoạt động KH&CN khác. Hoạt động thông tin khoa học đã tham mưu cho Lãnh đạo KTNN đưa ra các định hướng về NCKH trong từng giai đoạn phát triển của KTNN, hỗ trợ các đoàn kiểm toán trong việc áp dụng các vấn đề nghiên cứu vào thực tiễn hoạt động kiểm toán, giúp các kiểm toán viên tra cứu, ứng dụng các vấn đề lý luận vào học tập, nghiên cứu, cũng như vào hoạt động kiểm toán. Tuy vậy, để hoạt động thông tin khoa học đáp ứng được nhu cầu thực tiễn của ngành cần phải tăng cường hơn nữa về chất lượng cung cấp các thông tin khoa học, đảm bảo tính thời sự và tính khoa học của thông tin.
Kết quả hoạt động hợp tác quốc tế về Khoa học và công nghệ
KTNN Việt Nam là một trong những cơ quan kiểm toán non trẻ nhất trong tổng số 180 cơ quan kiểm toán tối cao(SAI) trên thế giới. Ngay từ ngày đầu thành lập, KTNN đã nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động hợp tác quốc tế(HTQT) và đánh giá cao việc vận dụng kinh nghiệm và thành tựu của khoa học trong lĩnh vực kiểm toán của các SAI. Hòa chung với xu thế hội nhập và toàn cầu hóa, KTNN đã tích cực, chủ động mở rộng và thiết lập quan hệ hữu nghị hợp tác với các SAI và các tổ chức quốc tế như INTOSAI, ASOSAI và ASEANSAI. KTNN đã tích cực tham gia và trao đổi kinh nghiệm về hoạt động kiểm toán nói chung và hoạt động KH & CN nói riêng như cử người viết bài tham luận và tham gia các Hội thảo quốc tế; chủ trì phối hợp với Ủy ban Tài chính - Ngân sách của Quốc hội, Ngân hàng Thế giới(WB), Ngân hàng phát triển Châu Á(ADB), Tổ chức Hợp tác kỹ thuật Đức (GTZ), Hội kế toán công chứng Vương quốc Anh (ACCA), Hội kế toán công chứng Australia (CPA Australia) để tổ chức các Hội thảo quốc tế tại Việt Nam.
Hoạt động HTQT trong lĩnh vực KH&CN trong gần 20 năm qua đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận, mang lại hiệu quả thiết thực trên các mặt sau đây:
- Thông qua hoạt động của các Dự án GTZ, WB, ADB và EU... đã cung cấp nhiều thông tin và tư liệu khoa học quý giá cho các hoạt động NCKH của KTNN Việt Nam;
- Các Dự án đã cung cấp tài liệu và hỗ trợ kinh phí cho KTNN trong quá trình xây dựng và ban hành hệ thống Chuẩn mực kiểm toán của KTNN Việt nam;
- Các dự án trong giai đoạn 1997-2011 đã hỗ trợ cho KTNN một số trang thiết bị phục vụ cho công tác NCKH và đào tạo; tổ chức một số cuộc hội thảo khoa học quốc tế về tổ chức và hoạt động của các cơ quan KTNN Việt Nam;
Có thể nói rằng, hoạt động nghiên cứu KH&CN trong thời gian qua đã giải quyết căn bản những vấn đề lý luận và thực tiễn, góp phần tạo ra một bước chuyến biến mạnh mẽ về chất lượng và tăng cường hiệu quả, hiệu lực và uy tín hoạt động kiểm toán của KTNN. Hai mươi năm qua, cùng với quá trình xây dựng và phát triển, KTNN luôn tập trung phát triển hoạt động KH&CN theo hướng nghiên cứu ứng dụng, chuyên sâu theo từng lĩnh vực làm cơ sở phát triển các loại hình, phương pháp và công nghệ kiểm toán mới, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của ngành.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động nghiên cứu và thông tin khoa học của KTNN cũng còn một số tồn tại, hạn chế cần khắc phục trong thời gian tới để công tác nghiên cứu và thông tin khoa học tiếp tục có những đóng góp tích cực hơn nữa trong quá trình triển khai thực hiện kế hoạch hành động thực hiện Chiến lược phát triển KTNN đến năm 2020. Các hạn chế của hoạt động KH&CN được biểu hiện ở một số điểm sau đây:
Về chất lượng hoạt động NCKH : Nhìn chung kết quả nghiên cứu của các đề tài đạt kết quả tốt được thể hiện ở bảng trên vừa có tính lý luận vừa có tính ứng dụng cao. Tuy nhiên, vẫn còn một số đề tài chất lượng mới chỉ đạt yêu cầu, những vấn đề và nội dung nghiên cứu chưa có sự đào sâu nghiên cứu, một số vấn đề chưa được giải quyết một cách triệt để, các giải pháp đề ra còn chung chung, tính ứng dụng thấp.
Về tiến độ thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu: Phần lớn các đề tài được tổ chức nghiên cứu nghiêm túc đảm bảo được tiến độ nghiên cứu. Tuy nhiên vẫn còn không ít đề tài nghiên cứu chậm về tiến độ (đặc biệt là giai đoạn 2006-2011). Tiến độ nghiên cứu không đảm bảo trước hết đã ảnh hưởng trực tiếp đến việc ứng dụng kết quả nghiên cứu của đề tài vào thực tiễn ngoài ra còn ảnh hưởng đến việc tổ chức đánh giá nghiệm thu và công tác quyết toán kinh phí.
Về tính tiên phong, định hướng dẫn dắt hoạt động thực tiễn: Có không ít những vấn đề nảy sinh trong thực tiễn, nhưng công tác tổ chức nghiên cứu chậm nên chưa có luận cứ khoa học chắc chắn để hướng dẫn thực tiễn hoặc cung cấp luận cứ khoa học để phục vụ kịp thời giải quyết những vấn đề nảy sinh trong quá trình xây dựng và phát triển KTNN; NCKH chưa làm tròn chức năng hướng dẫn thực tiễn;
Về đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học:Mặc dù đã được Lãnh đạo KTNN quan tâm và Trung tâm Khoa học có nhiều cố gắng trong chính sách tuyển dụng, thu hút nhân tài, đào tạo bồi dưỡng tại chỗ, nhưng hiện nay đội ngũ nghiên cứu chuyên trách còn quá mỏng, cơ cấu các chuyên ngành nghiên cứu chưa hợp lý, kinh nghiệm thực tiễn kiểm toán hạn chế nên ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng và hiệu quả thực hiện nhiệm vụ NCKH.
3. Giải pháp nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học và thông tin khoa học
Để nâng cao chất lượng hoạt động nghiên cứu và thông tin khoa học, đáp ứng mục tiêu đề ra của KTNN trong thời gian tới, công tác nghiên cứu và thông tin khoa học cần chú trọng một số giải pháp cụ thể sau đây:
Thứ nhất, phát triển đội ngũ cán bộ NCKH. Lực lượng cán bộ NCKH là nhân tố cơ bản quyết định đến chất lượng và hiệu quả của hoạt động NCKH. Vì vậy, để nâng cao chất lượng NCKH trước hết phải tăng cường được đội ngũ cán bộ làm công tác NCKH chuyên trách cả về số lượng và chất lượng. Trước hết, KTNN cần phát triển đổi ngũ cán bộ NCKH mạnh cả về số lượng và chất lượng; xây dựng kế hoạch và phương thức đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ NCKH hiện có và thu hút từ ngoài ngành về; và tạo điều kiện cho các cán bộ NCKH đi khảo sát, nghiên cứu, học tập kinh nghiệm ở nước ngoài và đẩy mạnh hợp tác về NCKH với các cơ quan nghiên cứu trong nước và ngoài nước, cũng như tạo điều kiện để nghiên cứu viên tham gia thực tiễn hoạt động kiểm toán tại các KTNN chuyên ngành và KTNN khu vực.
Thứ hai, đổi mới cơ chế quản lý, tuyển chọn, giao nhiệm vụ NCKH, quản lý và theo dõi tiến độ nghiên cứu.
Mặc dù trong thời gian qua hàng năm KTNN đã xác định rõ định hướng, mục tiêu, yêu cầu về hoạt động nghiên cứu để các đơn vị và cá nhân suy nghĩ và đăng ký đề tài và sau đó tổ chức xét duyệt nhiệm vụ nghiên cứu. Việc làm này đã đem lại những tác dụng nhất định trong nghiên cứu; tuy nhiên, thông thường những cá nhân tham gia đều đưa ra những hướng nghiên cứu vốn là thế mạnh của mình (tất nhiên là phải thuyết phục được Hội đồng xét duyệt về tính cấp thiết), trong khi đó, có nhiều vấn đề thực sự cần thiết và mang lại hiệu quả, nhưng do quá “hóc búa” hoặc khó khăn khi triển khai nên không ai đăng ký để thực hiện. Do đó trong thời gian tới cần đổi mới quy trình xét chọn và giao nhiệm vụ NCKH theo hướng:
Đối với đề tài có thể áp dụng cơ chế xét tuyển, chọn thầu
Đối với loại đề tài này cần áp dụng phương thức tuyển chọn theo phương thức xét thầu, bảo đảm cho các đơn vị trong và ngoài KTNN đều có thể tham gia tuyển chọn. Việc tuyển chọn sẽ do Hội đồng tuyển chọn cấp Ngành quyết định và kết quả tuyển chọn phải được thông báo công khai. Theo định hướng nghiên cứu đã được thông báo các đơn vị đề nghị những vấn đề thiết thực có tính cấp thiết phải nghiên cứu cho Hội đồng Khoa học KTNN tổng hợp, sau đó sẽ tổ chức xét thầu.
Đối với các đề tài thực hiện theo phương thức giao trực tiếp
Do vậy, bên cạnh việc đấu thầu đề tài, cần có cơ chế “giao” những đề tài “hóc búa” này cho những cá nhân/đơn vị có khả năng thực hiện để tài hoặc theo cơ chế đặt hàng . Đối với các đề tài thực hiện theo phương thức giao trực tiếp thì việc lựa chọn tổ chức, cá nhân có năng lực, phẩm chất, điều kiện và chuyên môn phù hợp để trực tiếp giao nhiệm vụ NCKH là rất cần thiết và là yếu tố quyết định đến tiến độ và chất lượng nghiên cứu đề tài.
Công tác nghiệm thu
Đối với công tác nghiệm thu cần thực hiện cơ chế quản lý đề tài theo kết quả, sản phẩm đầu ra, bám sát vào thuyết minh và Hợp đồng nghiên cứu khoa học đã ký kết để đánh giá đúng thực trạng và chất lượng nghiên cứu của Đề tài. Sau khi nghiệm thu, Thường trực văn phòng Hội đồng Khoa học KTNN cần thông báo cho lãnh đạo KTNN về kết quả nghiên cứu của các đề tài; Các buổi nghiệm thu cần thông báo công khai rộng rãi và mời thêm những tổ chức và cá nhân khác quan tâm đến đề tài nghiên cứu cùng tham dự các buổi nghiệm thu nhằm giám sát hoạt động cũng như chất lượng nghiên cứu .
Chuyển giao kết quả nghiên cứu
Một trong những vấn đề của công tác NCKH mà KTNN cần chú trọng trong thời gian tới đó là phải xây dựng những quy định về cơ chế chuyển giao kết quả nghiên cứu như quy định các chủ nhiệm đề tài cần phổ biến kết quả nghiên cứu của đề tài trên Website của KTNN, đăng trong các Tạp chí và Tờ Thông tin của ngành. Ngoài ra, cần tăng cường chất lượng của công tác xã hội hóa, in ấn phát hành kết quả nghiên cứu và nâng cao hơn nữa hiệu quả của công tác quản lý khoa học.
Thứ ba, về tổ chức bộ máy nghiên cứu khoa học. Cần đẩy nhanh tiến độ thành lập Viện Nghiên cứu Khoa học Kiểm toán theo Chiến lược phát triển KTNN đến năm 2020 theo Nghị quyết 927 ngày 19/4/2010 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Khóa 12 để tăng cường năng lực KH & CN của KTNN. Đối với tổ chức bộ máy NCKH cần có quy định cụ thể về trách nhiệm của nghiên cứu viên như quy định về định mức nghiên cứu khoa học hàng năm đối với nghiên cứu viên. Đối với Hội đồng Khoa học KTNN cần nâng cao trách nhiệm của các thành viên trong Hội đồng và tăng cường chất lượng hoạt động của các thành viên Hội đồng và phương pháp hoạt động của Hội đồng khoa học cũng cần có những đổi mới, hoàn thiện.
Thứ tư, đổi mới việc phân bổ kinh phí cho hoạt động nghiên cứu khoa học. Đổi mới cơ chế tài chính cần chú trọng đầu tư có trọng điểm cho các đề tài NCKH có ý nghĩa đối với sự phát triển của KTNN, không nên phân bổ bình quân, cào bằng như hiện nay; cần nâng cao quyền tự chủ về tài chính và nghiên cứu; và cần có cơ chế khuyến khích tài chính đối với các đề tài nghiên cứu. Đối với những đề tài “hóc búa” cần thiết phải tăng cường thêm kinh phí phù hợp để có khả năng tổ chức thực hiện. Có như vậy mới khuyến khích được những người tổ chức thực hiện nghiên cứu đề tài, nhưng bên cạnh đó, cũng lựa chọn được các chủ nhiệm đề tài có “tâm” và đủ “tầm”, có trách nhiệm, niềm đam mê trong nghiên cứu.
Thứ năm, tăng cường hợp tác đối ngoại trong nghiên cứu khoa học. Giải pháp này bao gồm việc đẩy mạnh HTQT, mở rộng cơ chế chủ động hợp tác đối với các đơn vị, cá nhân và cho phép các đơn vị, cá nhân tham gia các khóa học, các hiệp hội khoa học hoặc tham gia các hội nghị, hội thảo khoa học của các tổ chức; đồng thời triển khai các nhiệm vụ NCKH theo nội dung Nghị đinh thư ký kết giữa KTNN Việt Nam và các SAI trên thế giới và khu vực nhằm tận dụng kiến thức và kinh nghiệm của họ trong các hoạt động kiểm toán chính phủ mà chúng ta còn thiếu và yếu.
Thứ sáu, các giải pháp khác. Ngoài các giải pháp trên, để nâng cao chất lượng hoạt động nghiên cứu và thông tin khoa học của KTNN trong thời gian tới cần phải chú trọng các giải pháp như cơ chế khuyến khích tài chính đối với các sáng tạo trong NCKH; xây dựng chế độ đãi ngộ, khen thưởng đúng người, đúng việc và kịp thời đối với cá nhân có nhiều thành tích nghiên cứu đóng góp cho sự phát triển của KTNN và những công trình NCKH đặc biệt xuất sắc và tạo điều kiện thuận lợi để kết quả NCKH được áp dụng vào thực tiễn như tổ chức hội thảo, hội nghị, tọa đàm…
Công tác NCKH và thông tin khoa học của KTNN trong 20 năm qua đã có những đóng góp tích cực đối với quá trình xây dựng và phát triển KTNN trong việc hoàn thiện tổ chức, bộ máy và hoàn thiện phương pháp chuyên môn nghiệp vụ, từng bước góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động kiểm toán và qua đó góp phần nâng cao giá trị và lợi ích hoạt đông của KTNN đối với Chính phủ, Quốc hội và xã hội. Để góp phần vào việc thực hiện thành công Kế hoạch chiến lược phát triển KTNN đến năm 2020, công tác nghiên cứu và thông tin khoa học của KTNN cần tiếp tục phát huy hơn nữa vai trò của mình đối với sự lớn mạnh không ngừng trong các giai đoạn phát triển tiếp theo của Kiểm toán Nhà nước./.
Tài liệu tham khảo
1. Luật khoa học và công nghệ số 29/2013/QH13
2. Nghị định số 08/2014/NĐ-CP của Chính phủ: Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật khoa học và công nghệ 2013.
3. Quy chế tổ chức và quản lý hoạt động khoa học của KTNN ban hành theo quyết định số 1714/QĐ-KTNN ngày 29/10/2012 của Tổng KTNNN.
4. Các Báo cáo tổng kết hoạt động khoa học và công nghệ của KTNN và của Trung tâm KH & BDCB.