PGS. TS
Nguyễn Thị Mùi, Thành viên Hội đồng tư vấn chính sách tài chính, tiền tệ quốc
gia cho rằng, con số 23% dù chưa kết luận là nóng hay chưa nóng, nhưng là mức
cao. Nhiều rủi ro với thị trường tiền tệ được bà cảnh báo, nếu không xử lý tốt
thực trạng này:
Rủi ro nếu
mất thanh khoản
Thưa bà, tín
dụng ngoại tệ tăng trưởng trên 23% được nhiều người cho rằng xuất phát từ chênh
lệch giữa lãi suất đồng VN và USD quá lớn. Theo bà liệu có nguyên nhân khác?
Cơ bản nhất đúng là chênh lệch của lãi suất USD và VND.
Lãi suất vay đô cao nhất cũng chỉ 8 – 9%, còn lãi suất VND thậm chí tới 20%. Trong
khi đó, nhiều thông tin cho thấy tỷ giá tiếp tục ổn định trong quý ba này, càng
củng cố thêm việc vay ngoại tệ có lợi hơn. Do vậy DN tìm mọi cách vay được USD,
đẩy tăng trưởng tín dụng ngoại tệ tăng tới 23,4%.
Nhưng cũng còn một lý do khác làm lãi suất USD biến
động, đó là các DN nhập khẩu đến kỳ hạn thanh toán, họ cần ngoại tệ để trả nợ.
Các DN cũng bắt đầu phải tính ngoại tệ nhập khẩu nguyên liệu cho sản xuất phục
vụ cuối năm. Cầu USD tăng thì lãi suất USD cũng tăng.
Việc tăng
giảm nếu không đột biến là điều bình thường. Còn trong trường hợp này, tăng
trên 23% là điều đáng lo ngại với thị trường tiền tệ?
Một khi tăng trưởng tín dụng mạnh, hay gọi là nóng,
thì phát sinh nhiều rủi ro. Nếu tăng nóng kéo thời gian dài thì rất dễ dẫn đến
khó khăn về thanh khoản. Mà thanh khoản ngoại tệ thiếu không dễ xử lý như thiếu
thanh khoản nội tệ. Nếu thiếu thanh khoản nội tệ, NHNN có đủ sức điều tiết bằng
cách bơm tiền qua kênh tái cấp vốn, tái chiết khẩu hoặc thị trường mở. Nhưng
khó khăn về thanh khoản ngoại tệ thì không dễ như thế, vì dự trữ ngoại tệ không
ở trong trạng thái dồi dào.
Thêm nữa, cứ cho là dự trữ có dồi dào đi nữa thì ở
nước ta còn xuất hiện tình trạng là nếu NHNN bán ngoại tệ ra, có khi thị trường
lại phản ứng ngược lại, lúc đó biết bán bao nhiêu là đủ?. Vì khi NHNN bán ngoại
tệ ra thì có thể xảy ra tình trạng càng bán, giá ngoại tệ càng tăng, bởi việc
bán này khiến người dân có tâm lý sẽ phải mua USD để cất trữ. Như vậy sẽ tạo sức
ép lên tỷ giá. Trong khi dự trữ ngoại tệ có hạn, việc bán ra này sẽ tác động
rất lớn đến dự trữ ngoại tệ quốc gia. Khi đó, dễ quay trở lại câu chuyện đã
vướng phải ở một số năm trước, đó là phải giảm giá đồng tiền VN, điều chỉnh lại
tỷ giá. Tất nhiên NHNN khi bán ngoại tệ ra có thể sử dụng thêm công cụ dự trữ
bắt buộc. Nhưng một khi tăng trưởng quá nóng, mà thanh khoản ngoại tệ của các
NHTM có vấn đề thì đây là điều rất rủi ro.
23% cao hay
nóng?
Bà nói nhiều
đến từ tăng trưởng nóng, vậy mức 23% đã coi là nóng?
Nếu nóng hay không phải nhìn vào tổng thể. Mức tăng
trưởng tín dụng chung của ta hiện là trên 7%, thì rõ ràng tăng trưởng tín dụng ngoại
tệ 23% là cao. Còn nóng hay không thì phải nhìn vào các khía cạnh khác. Nhưng vẫn
phải khẳng định là cao so với mức chung.
Và đây không phải là vấn đề mới, mà là vấn đề chúng ta
từng gặp phải từ những năm trước. Từ cuối năm 2010, tăng trưởng tín dụng chung
chỉ khoảng 31%, nhưng tăng trưởng tín dụng ngoại tệ gần 50%. Nghĩa là chúng ta có
nhiều thời điểm mất cân bằng cung cầu ngoại tệ. Trở lại mức tăng 23% hiện nay,
mức này dễ dẫn đến rủi ro nếu ngân hàng mất thanh khoản, đẩy cả lãi suất và tỷ
giá lên. Đây là sức ép buộc NHNN phải điều chỉnh tăng tỷ giá ngoài mong muốn.
Trong bối cảnh hiện nay khi NHNN chưa có động thái cụ
thể điều chỉnh tỷ giá ở khía cạnh này, nhưng xã hội đã đẩy cầu ngoại tệ tăng
rồi. Tất nhiên NHNN nói là không phải đối tượng nào cũng vay được, nhưng cái
lợi chênh lệch lãi suất, khiến DN tìm mọi cách để vay được. Một khi không xem
xét nhìn nhận đúng mức vấn đề này, nhất là mức tăng trưởng tín dụng đã 23%, thì
mục tiêu hạn chế và xóa bỏ tình trạng đô la hóa là không đạt được.
Bà bình luận
thế nào khi thời điểm này, chưa có động thái mới nào của NHNN, kể cả tăng lãi
suất hay tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với ngoại tệ?
NHNN đã hạ trần lãi suất tiền gửi tiết kiệm bằng ngoại
tệ của dân cư từ 3% xuống 2%; đồng thời tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại
tệ của các ngân hàng. Nhưng theo tôi, để ngăn chặn tình trạng tăng trưởng cao
tín dụng ngoại tệ thì đi đôi với xử lý đầu vào phải xử lý đầu ra ngoại tệ. Đầu
vào thì NHNN đã giảm lãi suất gửi tiết kiệm từ dân cư xuống 2%; quy định tiền
ngoại tệ trên tài khoản trước đây hưởng lãi suất 1% nay còn 0,5%, điều chỉnh
tăng dự trữ bắt buộc làm chi phí vốn của ngân hàng tăng. Những yếu tố này khiến
lãi suất đầu ra của USD tăng. Thế nhưng tăng như thế là chưa đủ độ để DN cân
nhắc giữa vay VND hay USD.
Nên tăng dự
trữ bắt buộc
Vậy để xử lý
đầu ra, giải pháp cụ thể nào theo bà nên làm gì?
Nên tiếp tục tăng dự trữ bắt buộc để tăng chi phí vốn.
Tăng dự trữ bắt buộc đồng nghĩa với thu hẹp quan hệ tín dụng bằng ngoại tệ. Ví
dụ trước đây huy động được 100 triệu ngoại tệ, NHNN yêu cầu dự trữ bắt buộc là
6%, nhưng nay tăng lên 10% hay 15% thì rõ ràng khả năng tạo tiền ngoại tệ giảm
đi. Như thế chi phí vốn tăng lên, lãi suất đầu ra của USD tăng lên.
Cách thứ hai đã làm là quy định đối tượng nhất định mới được vay ngoại tệ là
rất đúng, nhưng đi đối với đó là phải kiểm tra giám sát chặt chẽ, tránh tình
trạng giả sử bằng cách này cách khác họ đổi sang VND gửi tiết kiệm lấy lãi, đến
kỳ trả nợ lại mua USD trả ngân hàng.
Giải pháp
tăng dự trữ bắt buộc có lẽ ưu thế hơn, vì nếu tăng lãi suất thì có nguy cơ đô
la hóa lớn hơn, còn kiểm soát DN vay ngoại tệ cũng rất khó khăn?
Tôi cho rằng NHNN đang từng bước hạ lãi suất huy động
ngoại tệ để chuyển quan hệ huy động sang quan hệ mua bán. Song phải tính đến
thanh khoản của ngoại tệ, đồng thời phải tính đến dự trữ bắt buộc với một biên
độ cao hơn, thậm chí tỷ lệ dự trữ ngoại tệ phải tăng lên để chi phí vốn ngoại
tệ đắt lên, làm chi phí cho vay đắt lên. Còn khi lãi suất huy động ngoại tệ
thấp, nhiều thời điểm người dân chuyển sang giữ tiền đồng, nên các NHTM mua được
ngoại tệ của các tổ chức kinh tế và từ dân cư. Bối cảnh ấy NHNN có thể bằng
nhiều cách thông qua cơ chế bơm, hút, mua được ngoại tệ từ NHTM. Mặc dù NHNN
vừa qua đã nói mua được lượng lớn ngoại tệ, nhưng đây vẫn là động thái cần
thiết.
Một cái khó nữa của ngân hàng hiện nay là
kiểm soát việc sử dụng vốn vay ngoại tệ của các DN đúng mục đích?
Thực ra đối tượng cho vay ngoại tệ chúng ta đã có quy
định kiểm soát, như chỉ cho vay những DN có nguồn thu về ngoại tệ, hay cho vay
một số trường hợp đặc biệt phải được sự cho phép của NHNN như lĩnh vực xăng
dầu,… Công tác kiểm tra việc sử dụng ngoại tệ của DN không có gì khó khăn. Thế
nhưng bối cảnh hiện nay, quy định có nguồn trả mới được vay, nên cũng có những
trường hợp DN vay ngoại tệ, bán ra đổi sang VND, sau đó gửi ngân hàng kiếm lãi.
Đến lúc đáo hạn lại mua vào ngoại tệ trả NHTM. Như thế vẫn đáp ứng được quy
định của NHNN. Do đó cần quan tâm đến vấn đề này. Nhưng vấn đề chính, phải xem
bản chất vấn đề là tại sao DN lại hành động như vậy để xử lý./.
Vũ Dũng