DIỄN ĐÀN ĐỐI THOẠI
CẦN CÔNG KHAI MINH BẠCH
(khoahockiemtoan.vn) - Ông Nguyễn Hồng Long, Kiểm toán trưởng Kiểm toán Nhà nước chuyên ngành VI: Các đầu mối bình ổn xăng dầu đều mong muốn được kiểm toán để công khai minh bạch về việc trích lập và sử dụng quỹ bình ổn giá xăng dầu

Cuối tháng 7/2011, Kiểm toán Nhà nước (KTNN) bắt đầu triển khai cuộc kiểm toán chuyên đề về việc trích lập, quản lý và sử dụng Quỹ bình ổn giá xăng dầu giai đoạn 2009-2010. Đây đang được coi là vấn đề thu hút được sự quan tâm theo dõi không chỉ của các cơ quan quản lý mà của từng người dân. Nhân dịp này, PV TCNCKHKT đã có buổi trao đổi với ông Nguyễn Hồng Long, Kiểm toán trưởng KTNN chuyên ngành VI, đơn vị được giao chủ trì cuộc kiểm toán này.

* Thưa ông, dư luận đang đứng trước nhiều thông tin về giá cả xăng dầu, sự lỗ lãi của Tổng công ty Xăng dầu Việt Nam (Petrolimex), đầu mối chiếm tới 60% thị phần xăng dầu tại Việt Nam. Đặc biệt là gần đây, Bộ Tài chính phát hiện Petrolimex sử dụng sai 1200 tỷ đồng tiền quỹ bình ổn. Vậy, ông có thể cho biết cuộc kiểm toán này sẽ tập trung vào những vấn đề gì?

- Giá cả xăng dầu hiện nay được rất nhiều đối tượng quan tâm, từ các cơ quan quản lý nhà nước cho đến các Tập đoàn kinh tế, các tầng lớp nhân dân trong xã hội. Mối quan tâm này thể hiện rất nhiều qua các phương tiện thông tin đại chúng. Theo chúng tôi nghĩ giá cả xăng dầu phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, trong đó, tác động của quỹ bình ổn đến giá xăng dầu cũng có tác động đáng kể. Để phục vụ cho việc làm minh bạch hơn giá cả xăng dầu trên thị trường trong năm nay KTNN có cuộc kiểm toán chuyên đề về Quỹ bình ổn chứ chúng ta chưa thực hiện kiểm toán toàn diện hoạt động của các đầu mối nhập khẩu xăng dầu.

Cuộc kiểm toán chuyên đề về việc trích lập, quản lý và sử dụng Quỹ bình ổn giá xăng dầu giai đoạn năm 2009-2010 được thực hiện theo Quyết định số 935/QĐ-KTNN ngày 19/7/2011 của Tổng KTNN với mục tiêu chính là: Đánh giá tình hình trích lập, quản lý và sử dụng Quỹ bình ổn giá xăng dầu trong năm 2009, 2010 của các đầu mối nhập khẩu xăng dầu; kiểm tra, đánh giá việc tuân thủ pháp luật trong việc trích lập, quản lý và sử dụng Quỹ bình ổn xăng dầu; đánh giá tính kinh tế, hiệu quả, hiệu lực của việc thực hiện chính sách bình ổn giá xăng dầu bằng hình thức trích lập và sử dụng Quỹ bình ổn giá xăng dầu và tác động của chính sách này đối với hoạt động kinh doanh mặt hàng xăng dầu; phát hiện kịp thời các sai phạm, bất cập trong việc quản lý và sử dụng Quỹ bình ổn giá dầu để kiến nghị với các cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách liên quan.

Nội dung kiểm toán là kiểm toán xác nhận số liệu trích lập và sử dụng Quỹ bình ổn giá xăng dầu năm 2009, 2010 của các đầu mối nhập khẩu xăng dầu; kiểm toán việc chấp hành pháp luật trong việc trích lập, quản lý và sử dụng Quỹ bình ổn giá xăng dầu; kiểm toán, đánh giá tính kinh tế, hiệu lực, hiệu quả của việc thực hiện chính sách bình ổn giá xăng dầu bằng hình thức trích lập và sử dụng Quỹ bình ổn giá xăng dầu. Đặc biệt, ở cuộc kiểm toán này chúng tôi kiểm toán việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước của Bộ Tài chính và Bộ Công thương trong việc hướng dẫn cơ chế, kiểm tra, giám sát các đầu mối nhập khẩu xăng dầu trích lập và sử dụng Quỹ bình ổn giá xăng dầu theo quy định.

Chúng tôi nghĩ rằng với mục tiêu như vậy và phương pháp nghiệp vụ tiến hành, sau khi kết thúc kiểm toán và theo quy trình kiểm toán chúng tôi sẽ đưa ra được ý kiến kết luận về việc trích lập quỹ, sử dụng quỹ và các cơ chế phục vụ cho việc trích quỹ này một cách minh bạch và công khai trước dư luận xã hội.

* Việc triển khai cuộc kiểm toán chạm tới vấn đề đang thu hút được sự quan tâm theo dõi của dự luận. KTNN chuyên ngành VI và đoàn Kiểm toán có phải chịu nhiều áp lực, đâu là thuận lợi và khó khăn?

- Tôi có thể khẳng định là không có bất cứ tác động nào gây áp lực cho chúng tôi khi thực hiện cuộc kiểm toán này. Chúng tôi hoàn toàn nhận được sự ủng hộ, hỗ trợ của Quốc hội, Chính phủ trong việc làm minh bạch về Quỹ bình ổn giá này. Bản thân các đầu mối bình ổn xăng dầu rất mong muốn thông qua kiểm toán để công khai hóa ra công chúng đảm bảo tính công khai minh bạch về việc trích lập và sử dụng quỹ.

Tuy nhiên, chúng tôi lại chịu áp lực từ chính nội tại bên trong, bởi vì tất cả các cơ chế chính sách được ban hành, cho đến thời điểm này có cái rất hợp lý và hợp với thời điểm nhưng cũng có những cơ chế chính sách còn một số vấn đề chưa phù hợp kể cả về quy định và thời điểm. Vì vậy đối với chúng tôi, việc đưa ra được những nhận xét đánh giá về việc ban hành cơ chế chính sách của các cơ quan chức năng, việc trích lập, quản lý và sử dụng Quỹ là những vấn đề đòi hỏi chúng tôi phải làm việc hết sức nghiêm túc, cân nhắc và cẩn thận. Để đảm bảo cho việc đó, trước hết khi bước vào cuộc kiểm toán, đơn vị đã tổ chức nhiều cuộc hội thảo nội bộ để học tập, trao đổi, nghiên cứu, mổ xẻ các cơ chế chính sách, những tác động của cơ chế chính sách tới quỹ bình ổn và điều chỉnh Quỹ này, qua đó ban hành hồ sơ mẫu biểu phục vụ cho công tác kiểm toán. Thậm chí khi triển khai kiểm toán chúng tôi mời đủ 11 đầu mối nhập khẩu xăng dầu, những đơn vị được kiểm toán đợt này, đại diện Bộ Tài chính, Bộ Công thương, hai cơ quan quản lý nhà nước về quỹ bình ổn này cùng triển khai và thống nhất với nhau về phương pháp làm việc. Chúng tôi cũng mời Cục Quản lý giá của Bộ Tài chính tham gia khi xem xét kết luận tại đơn vị để có những trao đổi một cách thẳng thắn và minh bạch. Tôi nghĩ rằng cùng với những chuẩn bị đó, chúng tôi cũng bố trí những cán bộ KTV có kinh nghiệm về kiểm toán xăng dầu, đã từng làm về xăng dầu như ông Nguyễn Văn Hiển, Phó KTT KTNN CN 6, người từng làm đoàn hỗ trợ lãi suất, kiểm toán xăng dầu và một số trưởng phó phòng có kinh nghiệm kiểm toán về vấn đề này. Tôi tin tưởng rằng với sự chỉ đạo sát sao của lãnh đạo KTNN, lãnh đạo KTNN CN 6, đoàn kiểm toán về Quỹ bình ổn giá xăng dầu sẽ hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

* Nhiều câu hỏi đặt ra rằng, liệu có phải do sức ép của dư luận xã hội mà KTNN thực hiện cuộc kiểm toán chuyên đề về Quỹ bình ổn giá xăng dầu lần này. Ông nghĩ thế nào về ý nghĩa của việc thực hiện các cuộc kiểm toán chuyên đề ?

- Khi xây dựng kế hoạch kiểm toán, KTNN thực hiện theo nhiều tiêu thức. Thực hiện kiểm toán theo kế hoạch hàng năm, cùng có những cuộc kiểm toán theo sự chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Quốc hội. Ngoài ra còn căn cứ vào dư luận xã hội, các điểm nóng về kinh tế, những vấn đề được dư luận xã hội quan tâm, KTNN có thể xây dựng kế hoạch kiểm toán. Vấn đề xăng dầu là một trong những điểm "nóng" gần 1 năm trở lại đây khi mà giá xăng dầu thế giới có nhiều biến động. Đây là vấn đề mà Quốc hội, Chính phủ và người dân quan tâm. Vì vậy KTNN triển khai cuộc kiểm toán về vấn đề này mà trước hết là kiểm toán về Quỹ bình ổn giá để dư luận có được câu trả lời chính xác nhất. Tôi nghĩ rằng việc kiểm toán Quỹ bình ổn xăng dầu lần này cũng một phần do tác động của dư luận xã hội.

Theo suy nghĩ của tôi, trong dài hạn, các vấn đề “nóng” mà xã hội quan tâm, có thể chưa xảy ra những vấn đề gây tranh cãi nhưng có tiềm ẩn cho lâu dài. Vậy cho nên, với KTNN, về lâu dài các cuộc kiểm toán chuyên đề trong một số lĩnh vực sẽ phải là những cuộc kiểm toán về phát triển kinh tế xã hội mà qua kiểm toán sẽ cảnh báo cho xã hội, sẽ có số liệu báo cáo lên Quốc hội, Chính phủ để kịp thời xem xét điều chỉnh ngay khi các vấn đề đang thực hiện chứ chưa cần phải đến khi kết thúc. Tôi nghĩ rằng các cuộc kiểm toán chuyên đề phải hướng đến những vấn đề như thế, phải phục vụ được yêu cầu cung cấp thông tin đầy đủ chính xác cho Quốc hội và Chính phủ và đồng thời cảnh báo được cho xã hội về những hệ lụy có thể xảy ra trong tương lai. Theo tôi đấy là mục tiêu mà KTNN phải hướng đến đối với kiểm toán chuyên đề.

* Là Kiểm toán trưởng của đơn vị được giao nhiệm vụ chủ trì kiểm toán các Tập đoàn, Tổng Công ty, kiểm toán các vấn đề "nóng" mà xã hội quan tâm như: Điện, than, xăng dầu...  Ông có nghĩ điều này gây áp lực lớn cho bản thân cá nhân ông và đơn vị?

- Tôi nghĩ rằng công việc của KTNN đương nhiên có áp lực. Áp lực không chỉ từ  dư luận xã hội mà còn từ nội tại bên trong. Việc kiểm toán tại các Tập đoàn, TCT lớn như: điện, than-khoáng sản, xăng dầu, những sản phẩm đầu vào của các ngành khác đòi hỏi chúng tôi phải làm việc một cách khách quan, trung thực để đưa ra những kết luận đảm bảo tính chính xác, công khai và minh bạch. Áp lực lớn nhất có lẽ chỉ là làm sao thực hiện đúng nhiệm vụ của đơn vị, có trách nhiệm với cơ quan, với các cơ quan quản lý và quan trọng là trách nhiệm với người dân. Để làm tốt điều này chúng tôi đã, đang và sẽ thực hiện theo đúng quy trình chuẩn mực, đúng với trách nhiệm của đoàn kiểm toán thì chúng tôi sẽ có được kết quả đảm bảo cho tính công khai, minh bạch.

* Càng đụng đến những vấn đề phức tạp, càng có nhiều rủi ro tiềm ẩn. Vậy cá nhân ông và đơn vị có những biện pháp gì để hạn chế rủi ro?

- Theo nguyên tắc cơ bản của KTNN là phạm vi kiểm toán càng rộng mức rủi ro càng cao. Tính chất công việc càng phức tạp độ rủi ro càng cao. Rõ ràng việc kiểm toán những Tập đoàn, TCT lớn hiện nay đang có những vấn đề mà dư luận xã hội đang bức xúc, các cơ quan quản lý đang có tiếng nói. Điều đó đối với chuyên ngành VI là cả một vấn đề buộc chúng tôi, từ lãnh đạo cho đến các đoàn kiểm toán phải hết sức quan tâm. Tuy nhiên, để hoàn thành nhiệm vụ này, như trên tôi đã nói, chúng tôi phải có sự chuẩn bị hết sức kỹ lưỡng về công tác chuyên môn, công tác con người, đặc biệt là công tác con người. Khi thực hiện các đoàn trọng điểm phải bố trí những KTV trước hết phải có tư cách đạo đức tốt, trình độ chuyên môn cao, có tinh thần trách nhiệm trước Đảng, trước nhân dân. Việc chuẩn bị tốt về công tác chuyên môn cũng rất quan trọng. Phải có sự chuẩn bị, tìm hiểu về đặc thù của mỗi đối tượng kiểm toán. Việc hướng dẫn về chuyên môn của trưởng đoàn, kiểm toán trưởng đối với các thành viên trong đoàn kiểm toán cần hết sức cẩn thận, đặc biệt là việc phải có hồ sơ mẫu biểu, những quy định rõ ràng. Vì vậy đối với chúng tôi, trước khi triển khai kiểm toán tại các tập đoàn lớn đều tổ chức nhiều buổi hội thảo để nâng cao trình độ kiến thức. Thậm chí chúng tôi mời đơn vị được kiểm toán cùng tham dự để tìm hiểu về những đặc thù của họ, tránh những bỡ ngỡ ban đầu khi thực hiện kiểm toán.

Điều đặc biệt, trong quá trình làm, tôi nghĩ ngoài vấn đề đạo đức, ngoài vấn đề chuyên môn thì công tác tuyên truyền, giáo dục đối với KTV là hết sức quan trọng, làm sao để KTV ý thức được trách nhiệm của mình đối với xã hội, để làm sao thục hiện công việc một cách công khai minh bạch và nhất hiệu quả nhất. Tôi nghĩ nếu có sự đảm bảo sự thống nhất thông suốt từ lãnh đạo đến KTV và có được sự chuẩn bị kỹ về công tác chuyên môn, về công tác kiểm tra giám sát, kịp thời động viên tinh thần của cán bộ thì bất cứ cuộc kiểm toán nào cũng đạt được mục tiêu đề ra.

* Ông có nhấn mạnh tới tầm quan trọng của yếu tố con người và các phương thức tuyên truyền giáo dục cán bộ, KTV. Vậy ông có thể chia sẻ về những phương thức mà KTNN chuyên ngành VI đã áp dụng thành công?

- Hàng năm trước khi triển khai, kết thúc các cuộc kiểm toán, KTNN chuyên ngành VI đều có họp để rút kinh nghiệm nhằm nhân lên nhũng điển hình tốt và khắc phục những hạn chế. Thông qua các tổ chức đoàn thể để tổ chức các buổi trao đổi, hội thảo nhằm nâng cao trình độ chuyên môn và tư cách đạo đức của KTV. Tuy nhiên, một trong những yếu tố quan trọng là sự động viên kịp thời của cấp quản lý. Tôi nhĩ rằng người đứng đầu một đơn vị, yếu tố đầu tiên là phải quy tụ được cán bộ của mình, quy tụ bằng trí tuệ, năng lực và sự nhiệt huyết của mình. Làm sao tập hợp được trí tuệ của tập thể bởi chỉ có trí tuệ tập thể mới phát huy được hết sức mạnh nội lực của mỗi cá nhân thành sức mạnh chung của tập thể. Tôi nghĩ rằng tính quy tụ, tập trung đó sẽ động viên KTV những lúc khó khăn, những lúc yếu lòng. Yếu tố tinh thần tập thể rất quan trọng. Cả tập thể cùng chung tay sẽ vượt qua được những "cám dỗ đời thường". Và đó là nguyên nhân để cho tới thời điểm này, bẩn thân tôi chưa phải ký vào bất cứ quyết định kỷ luật một đồng chí cán bộ KTV nào mà luôn nhận được sự đánh giá cao về năng lực chuyên môn, tư cách đạo đức của cán bộ mình từ phía các đơn vị được kiểm toán. Đó chính là niềm hạnh phúc lớn nhất của chúng tôi./.

TIN MỚI CẬP NHẬT
LIÊN KẾT WEBSITE
TẠP CHÍ IN
  • Tổng mục lục năm 2021
  • Tổng mục lục năm 2020
  • Tạp chí số 146 (Tháng 12/2019)