Bà Nguyễn Thị Cúc, Chủ tịch Hội tư vấn
Thuế
* Thưa bà, hiện nay Luật thuế TNCN
qui định mức giảm trừ gia cảnh đối với người có thu nhập chịu thuế là 4 triệu đồng
cho bản thân người nộp thuế và 1,6 triệu đồng đối với 1 người phụ thuộc. Với mức
giá cả như hiện nay thì mức giảm trừ này được cho là quá thấp. Bà đánh giá thế
nào về vấn đề này?
Đây
là một vấn đề mà ngay từ khi xây dựng Luật chúng tôi đã phải giải trình rất nhiều
lần. Trước hết phải nói rằng đây là mức giảm trừ gia cảnh cho người nộp thuế để
tính đến hoàn cảnh của người cụ thể nộp thuế chứ ko phải mức khởi điểm chịu thuế.
Ví dụ một người có hai con, có mức thu nhập là 10 triệu thì được giảm trừ cho bản
thân là 4 triệu cộng với mức giảm trừ cho hai con là được giảm trừ 7,2 triệu.
Như vậy, mức thuế phải nộp là 5% x (10 – 7,2) triệu đồng, tức chỉ phải nộp 140
ngàn đồng.
Có thể
hiểu đơn giản, với thu nhập 10 triệu và có hai người phụ thuộc thì mức chi tiêu
cho bản thân và người phụ thuộc là (10 triệu đồng – 140 ngàn đồng) chứ không phải
chi trong 4 triệu đồng và 1,6 triệu đồng.
Mức
giảm trừ gia cảnh phải tương ứng với bình quân thu nhập đầu người ở Việt Nam. Với
bình quân thu nhập một tháng chưa đến 100 USD (gần hai triệu đồng) như hiện nay
và mức giảm trừ tới 7,2 triệu đồng thì Việt Nam là nước có mức giảm trừ gia cảnh
cao nhất thế giới. Nước gần chúng ta là Trung Quốc cũng chỉ có mức giảm trừ gấp
1,2 lần thu nhập bình quân đầu người/GDP trong khi chúng ta được giảm trừ gấp
4-6 lần. Quan điểm của tôi là chúng ta không nên giảm mức thuế suất mà nên nới
rộng khoảng cách hoặc cắt bớt thuế suất cao để những người thu nhập cao được giảm
thuế thấp một chút.
Về
người phụ thuộc, người nộp thuế phải có trách nhiệm nộp hồ sơ chứng minh giảm
trừ gia cảnh đúng hạn và đúng qui định. Mỗi người phụ thuộc chỉ được giảm trừ một
lần và tương lai, người phụ thuộc cũng sẽ được cấp một mã số riêng. Với những
người phụ thuộc không phải là con đẻ, bố mẹ đẻ như anh chị, cô dì chú bác… thì
phải có hồ sơ chứng minh người đó hoàn toàn không nơi nương tựa và người nộp
thuế phải trực tiếp nuôi dưỡng. Thuế TNCN là khoản thuế được tính theo tháng hoặc
theo quí, người nộp thuế có trách nhiệm phải kê khai và nộp thuế đúng thời hạn.
Nếu quá thời hạn qui định thì mức phạt sẽ được tính là 0,05% x số tiền chậm nộp
x số ngày chậm nộp.
Vậy tiền thưởng Tết có phải chịu thuế
thu nhập cá nhân không?
Luật
lao động chỉ qui định lương tối thiểu chứ không qui định lương tối đa. Tức là
chúng ta khuyến khích người lao động làm việc tốt để được thưởng. Tuy nhiên,
thông tư 130 và hướng dẫn quyết toán thuế năm nay vẫn ràng buộc tiền thưởng
mang tính chất tiền lương phải được ghi trong hợp đồng lao động, thỏa ước lao động
tập thể phải ghi rõ điều kiện và mức thưởng thì mới được hạch toán vào chi phí.
Vậy
tiền thưởng thế nào là mang tính chất tiền lương? Theo thông tư số 18 các khoản
tiền thưởng không qui định trong hợp đồng lao động điều kiện và mức được hưởng
hoặc là không có trong qui chế của Tập đoàn, Tổng công ty, doanh nghiệp thì khi
đó mới không được hạch toán vào chi phí. Còn tất cả các khoản tiền thưởng kể cả
thưởng ngày Quốc tế lao động, ngày 8/3, thành lập ngành… mà có ghi vào Hợp đồng
lao động, qui chế của Tổng công ty thì đó được coi là tiền thưởng mang tính chất
tiền lương, tiền công và được hạch toán vào chi phí.
Vậy với trường hợp nhân viên cho công
ty vay tiền, hàng tháng nhận tiền lãi thì số tiền lãi này có phải nộp thuế thu
nhập cá nhân không? Và khi quyêt toán có tính số tiền đó vào thu nhập chịu thuế
không?
Chi
phí lãi tiền vay khi vay của cá nhân chỉ được hạch toán vào chi phí tính thuế
thu nhập doanh nghiệp với lãi suất tối đa 1,5 lần lãi suất cơ bản của Ngân hàng
nhà nước Việt Nam
công bố.
Nhưng
nếu chúng ta vay của tổ chức tín dụng, của doanh nghiệp bạn thì được hạch toán
theo lãi suất thực tế. Như vậy, khi chúng ta đưa vào tính thuế thu nhập doanh
nghiệp thì lãi suất bị khống chế 1,5 lần nhưng trả lãi thực tế cho cá nhân này
thì phải khấu trừ 5% ngay trên số thực lãi chi trả chứ không phải theo mức khống
chế chi phí tính thuế thu nhập doanh nghiệp. Đây là một khoản tính 5% độc lập,
không đưa vào quyết toán. Khi quyết toán chỉ tính thuế thu nhập từ tiền lương,
tiền công và kinh doanh còn những nguồn khác như chứng khoán, đầu tư, chuyển
nhượng vốn, xổ số, quà biếu, quà tặng… được quyết toán riêng, không liên quan đến
nhau. Nhưng khi xét giảm thuế thu nhập cá nhân thì số tiền giảm thuế được cộng
tất cả 10 khoản thu nhập chịu thuế đó để được giảm thuế chứ không phải chỉ từ
tiền lương, tiền công.
Bà Vũ Thị Mai, Phó tổng cục trưởng Tổng
cục thuế
* Thưa bà, cùng với việc tự in hóa
đơn nhiều doanh nghiệp gặp lúng túng trong việc sử dụng hóa đơn. Vậy bà có lưu
ý gì đối với các doanh nghiệp?
Đối với
các lô hàng xuất sang nước thứ hai thì phải sử dụng hóa đơn xuất khẩu. Theo qui
định, từ 1/1/2011 thì tất cả các DN phải tự in và đặt in hóa đơn, trừ các doanh
nghiệp siêu nhỏ hoặc các doanh nghiệp ở các địa bàn khó khăn và đặc biệt khó
khăn ở danh mục ban hành kèm theo nghị định 124 về thuế thu nhập doanh nghiệp.
Theo đó, doanh nghiệp ở địa bàn khó khăn không đủ điều kiện tự in hóa đơn thì
được mua hóa đơn của cơ quan thuế. Tuy nhiên, từ ngày 1.1.2012 thì các doanh
nghiệp này cũng phải tự in và đặt in.
Các
doanh nghiệp có thể đồng thời sử dụng nhiều hình thức hóa đơn - hóa đơn điện tử,
hóa đơn tự in và đặt in. Ba loại hóa đơn này doanh nghiệp phải thông báo phát
hành với các số không trùng nhau, tuân thủ qui định đối với từng loại, mẫu. Hóa
đơn tự in và đặt in tuân thủ thông tư 153, hóa đơn điện tử tuân thủ qui định về
hóa đơn điện tử.
Trong
trường hợp doanh nghiệp chuẩn bị sử dụng hóa đơn tự in nhưng hóa đơn mua của cơ
quan Thuế trước đó vẫn còn thì phải làm thủ tục hủy hóa đơn theo thông tư 153.
* Xin được hỏi thêm về qui định về
hóa đơn tự in đối với ngân hàng. Trong trường hợp ngân hàng phát sinh các khoản
thu phí ngân hàng chịu thuế GTGT với thuế suất là 10%. Các khoản này được thu
theo hệ thống qui định sẵn của ngân hàng. Khi đó hệ thống tự sinh ra một giấy
báo nợ có các số thứ tự khác nhau theo hệ thống của ngân hàng. Giấy báo nợ này
có các chỉ tiêu như một hóa đơn GTGT. Tuy nhiên số các giấy báo nợ này là 13 chữ
số còn qui định của các hóa đơn GTGT là 7 chữ số. Vậy ngân hàng có thể đăng kí
mẫu giấy báo nợ này làm hóa đơn thu phí của ngân hàng thay vì phải xuất hóa đơn
GTGT khác theo qui định được không?
Hóa
đơn tự in đối với các ngân hàng đúng là một vấn đề rất đặc thù. Đây cũng là vấn
đề mà Tổng cục Thuế đang nghiên cứu và sẽ sớm có công văn hướng dẫn theo hướng
các hóa đơn thu phí của dịch vụ ngân hàng trong trường hợp này được chấp nhận là hóa đơn GTGT. Tại thông tư 153
hiện cũng đã có những hướng dẫn về vấn đề này nhưng trong công văn sắp tới
chúng tôi sẽ có hướng dẫn rõ hơn kể cả về số cũng như về mẫu phát hành.
* Thưa bà, hóa đơn mới chỉ có người
bán hàng ký, đóng dấu, ghi rõ họ tên mà không có phần chữ kí và đóng dấu của Thủ
trưởng đơn vị bên bán hàng. Vậy trong một số trường hợp thủ trưởng đơn vị ủy
quyền cho nhân viên của mình ký hóa đơn thì người mua hàng có được quyền yêu cầu
bên bán xuất trình giấy ủy quyền hay không? Còn với những hóa đơn VAT chỉ có dấu
treo bên góc mà không có chữ ký của thủ trưởng đơn vị thì tính hợp pháp của hóa
đơn do bên mua hay bên bán chịu trách nhiệm?
Theo
nguyên tắc về hóa đơn thì hóa đơn được lập khi bán hàng hóa dịch vụ và phải phù
hợp với hoạt động thực tế phát sinh và phải phù hợp với tiêu thức trên hóa đơn.
Trên hóa đơn theo thông tư 153 hiện nay qui định người bán hàng kí, đóng dấu và
ghi rõ họ tên. Người bán hàng ở đây hiểu là bên bán hàng, tức là thủ trưởng đơn
vị ký tên và đóng dấu trên hóa đơn. Trường hợp thủ trưởng ủy quyền cho nhân
viên kí và đóng dấu thì phải có giấy ủy quyền.
Trong
quan hệ giao dịch giữa hai bên, bên mua muốn kiểm soát tính hợp pháp của hóa
đơn có thể yêu cầu được xem giấy ủy quyền đơn thì bên bán phải xuất trình giấy ủy
quyền. Tính hợp pháp của hóa đơn do cả hai bên cùng chịu trách nhiệm. Do đó cả
hai bên đều có quyền và nghĩa vụ phải kiểm soát các khâu lập hóa đơn và các
tiêu thức của hóa đơn.
Ông Cao Anh Tuấn, Vụ trưởng Vụ Chính
sách, Tổng cục Thuế
* Các doanh nghiệp hiện rất quan tâm
đến vấn đề thuế TNDN. Ông có thể nói qua điều kiện để được hưởng ưu đãi thuế
TNDN?
Theo
qui định tại nghị định 124 và thông tư 130 thì điều kiện để được hưởng ưu đãi
thuế thu nhập doanh nghiệp là doanh nghiệp mới thành lập từ dự án đầu tư, đáp ứng
các điều kiện và ngành nghề địa bàn theo qui định tại danh mục kèm theo nghị định
124. Để được hưởng ưu đãi thuế TNDN thì doanh nghiệp phải thực hiện chế độ kế
toán, hóa đơn chứng từ theo qui định và đăng kí nộp thuế TNDN theo phương pháp
kê khai. Tức là doanh nghiệp không phải nộp thuế khoán và công ty tự tính, tự
khai và xác định số thuế được miễn giảm trên tờ khai quyết toán thuế TNDN theo
điều kiện thực tế đáp ứng. Từ 1.1.2004 không có cơ quan nào xác nhận việc doanh
nghiệp được hưởng ưu đãi mà doanh nghiệp phải tự xác định dựa theo các điều kiện
được miễn giảm.
* Vậy nếu Công ty chuyển tiền ủng hộ
đồng bào miền Trung lũ lụt thông qua một quĩ do nhà cung cấp lập ra thì có được
hạch toán vào chi phí tính thuế thu nhập doanh nghiệp không?
Các
khoản chi tài trợ cho việc khắc phục hậu quả thiên nhiên đúng đối tượng theo
qui định tại thông tư 130 thì được tính vào chi phí được trừ. Cụ thể là tài trợ
cho khắc phục hậu quả thiên tai bằng tiền, hiện vật trực tiếp cho tổ chức có chức
năng huy động tài trợ, được thành lập và hoạt động theo qui định của pháp luật.
* Với các đơn vị vận tải, trong trường
hợp tàu biển Việt Nam vận tải hàng hóa qua các cảng nước ngoài thì có được coi
là vận tải quốc tế và hưởng thuế suất 0% không?
Tại
nghị định 123 hướng dẫn về thuế GTGT qui định vận tải quốc tế là việc vận chuyển
hàng hóa từ cảng Việt Nam đi
cảng nước ngoài và từ cảng nước ngoài vào cảng Việt Nam. Có nghĩa là trong trưởng hợp
doanh nghiệp Việt Nam thực
hiện vận chuyển hàng hóa giữa các cảng nước ngoài mà không qua cảng Việt Nam
thì không được coi là vận tải quốc tế. Như vậy trường hợp này không thuộc đối
tượng điều chỉnh của Luật thuế GTGT. Tuy nhiên, nếu như không thuộc đối tượng
điều chỉnh thì tồn tại bất hợp lý là thuế GTGT đầu vào sẽ không được khấu trừ.
Trước mắt, đề nghị các doanh nghiệp vẫn thực hiện theo qui định nhưng Bộ tài
chính cũng đã có hướng dẫn trường hợp này thuộc đối tượng không chịu thuế nhưng
đầu vào vẫn được phân bổ theo tỉ lệ chịu thuế và không chịu thuế để được khấu
trừ.
Diệu Thúy (tổng hợp)