DIỄN ĐÀN ĐỐI THOẠI
QUYẾT TOÁN THUẾ NĂM 2010: DOANH NGHIỆP CÒN NHIỀU LÚNG TÚNG
Cùng với việc 2 Thông tư 12 và 14 sửa đổi về thuế thu nhập cá nhân và thuế thu nhập doanh nghiệp được ban hành, doanh nghiệp và cá nhân đang gặp nhiều vướng mắc trong việc kê khai và nộp thuế năm 2010. Nhằm giải đáp một phần thắc mắc xung quanh các vấn đề này, chúng tôi xin giới thiệu một số ý kiến trao đổi của các chuyên gia về thuế trong Hội thảo “Quyết toán thuế 2010 – các vấn đề cần lưu ý”.

Bà Nguyễn Thị Cúc, Chủ tịch Hội tư vấn Thuế

* Thưa bà, hiện nay Luật thuế TNCN qui định mức giảm trừ gia cảnh đối với người có thu nhập chịu thuế là 4 triệu đồng cho bản thân người nộp thuế và 1,6 triệu đồng đối với 1 người phụ thuộc. Với mức giá cả như hiện nay thì mức giảm trừ này được cho là quá thấp. Bà đánh giá thế nào về vấn đề này?

Đây là một vấn đề mà ngay từ khi xây dựng Luật chúng tôi đã phải giải trình rất nhiều lần. Trước hết phải nói rằng đây là mức giảm trừ gia cảnh cho người nộp thuế để tính đến hoàn cảnh của người cụ thể nộp thuế chứ ko phải mức khởi điểm chịu thuế. Ví dụ một người có hai con, có mức thu nhập là 10 triệu thì được giảm trừ cho bản thân là 4 triệu cộng với mức giảm trừ cho hai con là được giảm trừ 7,2 triệu. Như vậy, mức thuế phải nộp là 5% x (10 – 7,2) triệu đồng, tức chỉ phải nộp 140 ngàn đồng.

Có thể hiểu đơn giản, với thu nhập 10 triệu và có hai người phụ thuộc thì mức chi tiêu cho bản thân và người phụ thuộc là (10 triệu đồng – 140 ngàn đồng) chứ không phải chi trong 4 triệu đồng và 1,6 triệu đồng.

Mức giảm trừ gia cảnh phải tương ứng với bình quân thu nhập đầu người ở Việt Nam. Với bình quân thu nhập một tháng chưa đến 100 USD (gần hai triệu đồng) như hiện nay và mức giảm trừ tới 7,2 triệu đồng thì Việt Nam là nước có mức giảm trừ gia cảnh cao nhất thế giới. Nước gần chúng ta là Trung Quốc cũng chỉ có mức giảm trừ gấp 1,2 lần thu nhập bình quân đầu người/GDP trong khi chúng ta được giảm trừ gấp 4-6 lần. Quan điểm của tôi là chúng ta không nên giảm mức thuế suất mà nên nới rộng khoảng cách hoặc cắt bớt thuế suất cao để những người thu nhập cao được giảm thuế thấp một chút. 

Về người phụ thuộc, người nộp thuế phải có trách nhiệm nộp hồ sơ chứng minh giảm trừ gia cảnh đúng hạn và đúng qui định. Mỗi người phụ thuộc chỉ được giảm trừ một lần và tương lai, người phụ thuộc cũng sẽ được cấp một mã số riêng. Với những người phụ thuộc không phải là con đẻ, bố mẹ đẻ như anh chị, cô dì chú bác… thì phải có hồ sơ chứng minh người đó hoàn toàn không nơi nương tựa và người nộp thuế phải trực tiếp nuôi dưỡng. Thuế TNCN là khoản thuế được tính theo tháng hoặc theo quí, người nộp thuế có trách nhiệm phải kê khai và nộp thuế đúng thời hạn. Nếu quá thời hạn qui định thì mức phạt sẽ được tính là 0,05% x số tiền chậm nộp x số ngày chậm nộp.

Vậy tiền thưởng Tết có phải chịu thuế thu nhập cá nhân không?

Luật lao động chỉ qui định lương tối thiểu chứ không qui định lương tối đa. Tức là chúng ta khuyến khích người lao động làm việc tốt để được thưởng. Tuy nhiên, thông tư 130 và hướng dẫn quyết toán thuế năm nay vẫn ràng buộc tiền thưởng mang tính chất tiền lương phải được ghi trong hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể phải ghi rõ điều kiện và mức thưởng thì mới được hạch toán vào chi phí.

Vậy tiền thưởng thế nào là mang tính chất tiền lương? Theo thông tư số 18 các khoản tiền thưởng không qui định trong hợp đồng lao động điều kiện và mức được hưởng hoặc là không có trong qui chế của Tập đoàn, Tổng công ty, doanh nghiệp thì khi đó mới không được hạch toán vào chi phí. Còn tất cả các khoản tiền thưởng kể cả thưởng ngày Quốc tế lao động, ngày 8/3, thành lập ngành… mà có ghi vào Hợp đồng lao động, qui chế của Tổng công ty thì đó được coi là tiền thưởng mang tính chất tiền lương, tiền công và được hạch toán vào chi phí.

Vậy với trường hợp nhân viên cho công ty vay tiền, hàng tháng nhận tiền lãi thì số tiền lãi này có phải nộp thuế thu nhập cá nhân không? Và khi quyêt toán có tính số tiền đó vào thu nhập chịu thuế không?

Chi phí lãi tiền vay khi vay của cá nhân chỉ được hạch toán vào chi phí tính thuế thu nhập doanh nghiệp với lãi suất tối đa 1,5 lần lãi suất cơ bản của Ngân hàng nhà nước Việt Nam công bố.

Nhưng nếu chúng ta vay của tổ chức tín dụng, của doanh nghiệp bạn thì được hạch toán theo lãi suất thực tế. Như vậy, khi chúng ta đưa vào tính thuế thu nhập doanh nghiệp thì lãi suất bị khống chế 1,5 lần nhưng trả lãi thực tế cho cá nhân này thì phải khấu trừ 5% ngay trên số thực lãi chi trả chứ không phải theo mức khống chế chi phí tính thuế thu nhập doanh nghiệp. Đây là một khoản tính 5% độc lập, không đưa vào quyết toán. Khi quyết toán chỉ tính thuế thu nhập từ tiền lương, tiền công và kinh doanh còn những nguồn khác như chứng khoán, đầu tư, chuyển nhượng vốn, xổ số, quà biếu, quà tặng… được quyết toán riêng, không liên quan đến nhau. Nhưng khi xét giảm thuế thu nhập cá nhân thì số tiền giảm thuế được cộng tất cả 10 khoản thu nhập chịu thuế đó để được giảm thuế chứ không phải chỉ từ tiền lương, tiền công.

Bà Vũ Thị Mai, Phó tổng cục trưởng Tổng cục thuế

* Thưa bà, cùng với việc tự in hóa đơn nhiều doanh nghiệp gặp lúng túng trong việc sử dụng hóa đơn. Vậy bà có lưu ý gì đối với các doanh nghiệp?

Đối với các lô hàng xuất sang nước thứ hai thì phải sử dụng hóa đơn xuất khẩu. Theo qui định, từ 1/1/2011 thì tất cả các DN phải tự in và đặt in hóa đơn, trừ các doanh nghiệp siêu nhỏ hoặc các doanh nghiệp ở các địa bàn khó khăn và đặc biệt khó khăn ở danh mục ban hành kèm theo nghị định 124 về thuế thu nhập doanh nghiệp. Theo đó, doanh nghiệp ở địa bàn khó khăn không đủ điều kiện tự in hóa đơn thì được mua hóa đơn của cơ quan thuế. Tuy nhiên, từ ngày 1.1.2012 thì các doanh nghiệp này cũng phải tự in và đặt in.

Các doanh nghiệp có thể đồng thời sử dụng nhiều hình thức hóa đơn - hóa đơn điện tử, hóa đơn tự in và đặt in. Ba loại hóa đơn này doanh nghiệp phải thông báo phát hành với các số không trùng nhau, tuân thủ qui định đối với từng loại, mẫu. Hóa đơn tự in và đặt in tuân thủ thông tư 153, hóa đơn điện tử tuân thủ qui định về hóa đơn điện tử.

Trong trường hợp doanh nghiệp chuẩn bị sử dụng hóa đơn tự in nhưng hóa đơn mua của cơ quan Thuế trước đó vẫn còn thì phải làm thủ tục hủy hóa đơn theo thông tư 153.

* Xin được hỏi thêm về qui định về hóa đơn tự in đối với ngân hàng. Trong trường hợp ngân hàng phát sinh các khoản thu phí ngân hàng chịu thuế GTGT với thuế suất là 10%. Các khoản này được thu theo hệ thống qui định sẵn của ngân hàng. Khi đó hệ thống tự sinh ra một giấy báo nợ có các số thứ tự khác nhau theo hệ thống của ngân hàng. Giấy báo nợ này có các chỉ tiêu như một hóa đơn GTGT. Tuy nhiên số các giấy báo nợ này là 13 chữ số còn qui định của các hóa đơn GTGT là 7 chữ số. Vậy ngân hàng có thể đăng kí mẫu giấy báo nợ này làm hóa đơn thu phí của ngân hàng thay vì phải xuất hóa đơn GTGT khác theo qui định được không?

Hóa đơn tự in đối với các ngân hàng đúng là một vấn đề rất đặc thù. Đây cũng là vấn đề mà Tổng cục Thuế đang nghiên cứu và sẽ sớm có công văn hướng dẫn theo hướng các hóa đơn thu phí của dịch vụ ngân hàng trong trường hợp này được  chấp nhận là hóa đơn GTGT. Tại thông tư 153 hiện cũng đã có những hướng dẫn về vấn đề này nhưng trong công văn sắp tới chúng tôi sẽ có hướng dẫn rõ hơn kể cả về số cũng như về mẫu phát hành.

* Thưa bà, hóa đơn mới chỉ có người bán hàng ký, đóng dấu, ghi rõ họ tên mà không có phần chữ kí và đóng dấu của Thủ trưởng đơn vị bên bán hàng. Vậy trong một số trường hợp thủ trưởng đơn vị ủy quyền cho nhân viên của mình ký hóa đơn thì người mua hàng có được quyền yêu cầu bên bán xuất trình giấy ủy quyền hay không? Còn với những hóa đơn VAT chỉ có dấu treo bên góc mà không có chữ ký của thủ trưởng đơn vị thì tính hợp pháp của hóa đơn do bên mua hay bên bán chịu trách nhiệm?

Theo nguyên tắc về hóa đơn thì hóa đơn được lập khi bán hàng hóa dịch vụ và phải phù hợp với hoạt động thực tế phát sinh và phải phù hợp với tiêu thức trên hóa đơn. Trên hóa đơn theo thông tư 153 hiện nay qui định người bán hàng kí, đóng dấu và ghi rõ họ tên. Người bán hàng ở đây hiểu là bên bán hàng, tức là thủ trưởng đơn vị ký tên và đóng dấu trên hóa đơn. Trường hợp thủ trưởng ủy quyền cho nhân viên kí và đóng dấu thì phải có giấy ủy quyền.

Trong quan hệ giao dịch giữa hai bên, bên mua muốn kiểm soát tính hợp pháp của hóa đơn có thể yêu cầu được xem giấy ủy quyền đơn thì bên bán phải xuất trình giấy ủy quyền. Tính hợp pháp của hóa đơn do cả hai bên cùng chịu trách nhiệm. Do đó cả hai bên đều có quyền và nghĩa vụ phải kiểm soát các khâu lập hóa đơn và các tiêu thức của hóa đơn.

Ông Cao Anh Tuấn, Vụ trưởng Vụ Chính sách, Tổng cục Thuế

* Các doanh nghiệp hiện rất quan tâm đến vấn đề thuế TNDN. Ông có thể nói qua điều kiện để được hưởng ưu đãi thuế TNDN?

Theo qui định tại nghị định 124 và thông tư 130 thì điều kiện để được hưởng ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp là doanh nghiệp mới thành lập từ dự án đầu tư, đáp ứng các điều kiện và ngành nghề địa bàn theo qui định tại danh mục kèm theo nghị định 124. Để được hưởng ưu đãi thuế TNDN thì doanh nghiệp phải thực hiện chế độ kế toán, hóa đơn chứng từ theo qui định và đăng kí nộp thuế TNDN theo phương pháp kê khai. Tức là doanh nghiệp không phải nộp thuế khoán và công ty tự tính, tự khai và xác định số thuế được miễn giảm trên tờ khai quyết toán thuế TNDN theo điều kiện thực tế đáp ứng. Từ 1.1.2004 không có cơ quan nào xác nhận việc doanh nghiệp được hưởng ưu đãi mà doanh nghiệp phải tự xác định dựa theo các điều kiện được miễn giảm.

* Vậy nếu Công ty chuyển tiền ủng hộ đồng bào miền Trung lũ lụt thông qua một quĩ do nhà cung cấp lập ra thì có được hạch toán vào chi phí tính thuế thu nhập doanh nghiệp không?

Các khoản chi tài trợ cho việc khắc phục hậu quả thiên nhiên đúng đối tượng theo qui định tại thông tư 130 thì được tính vào chi phí được trừ. Cụ thể là tài trợ cho khắc phục hậu quả thiên tai bằng tiền, hiện vật trực tiếp cho tổ chức có chức năng huy động tài trợ, được thành lập và hoạt động theo qui định của pháp luật.

* Với các đơn vị vận tải, trong trường hợp tàu biển Việt Nam vận tải hàng hóa qua các cảng nước ngoài thì có được coi là vận tải quốc tế và hưởng thuế suất 0% không?

Tại nghị định 123 hướng dẫn về thuế GTGT qui định vận tải quốc tế là việc vận chuyển hàng hóa từ cảng Việt Nam đi cảng nước ngoài và từ cảng nước ngoài vào cảng Việt Nam. Có nghĩa là trong trưởng hợp doanh nghiệp Việt Nam thực hiện vận chuyển hàng hóa giữa các cảng nước ngoài mà không qua cảng Việt Nam thì không được coi là vận tải quốc tế. Như vậy trường hợp này không thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật thuế GTGT. Tuy nhiên, nếu như không thuộc đối tượng điều chỉnh thì tồn tại bất hợp lý là thuế GTGT đầu vào sẽ không được khấu trừ. Trước mắt, đề nghị các doanh nghiệp vẫn thực hiện theo qui định nhưng Bộ tài chính cũng đã có hướng dẫn trường hợp này thuộc đối tượng không chịu thuế nhưng đầu vào vẫn được phân bổ theo tỉ lệ chịu thuế và không chịu thuế để được khấu trừ.

Diệu Thúy (tổng hợp)

TIN MỚI CẬP NHẬT
LIÊN KẾT WEBSITE
TẠP CHÍ IN
  • Tổng mục lục năm 2021
  • Tổng mục lục năm 2020
  • Tạp chí số 146 (Tháng 12/2019)