Trong nền kinh tế thị trường,
ngân hàng là một loại doanh nghiệp đặc biệt sản phẩm vô hình, không tồn tại
dưới dạng vật chất như các doanh nghiệp bình thường. Cạnh tranh được hiểu là
một quá trình mà trong đó các doanh nghiệp đấu tranh, ganh đua nhau, tìm mọi
biện pháp để thỏa mãn nhu cầu của khách hàng tối đa, thông qua đó đạt được các
mục tiêu kinh tế chủ yếu của mình như lợi nhuận, thị phần và vị thế kinh doanh.
Như vậy, cạnh tranh được chủ thể thực hiện nhằm mục đích cuối cùng là tối đa
hóa lợi ích, đối với doanh nghiệp đó là lợi nhuận, đối với người tiêu dùng đó
là sự thỏa mãn nhu cầu do tiêu dùng sản phẩm mang lại.
Khi khoa học công nghệ phát
triển, sản phẩm ra đời ngày càng phong phú đa dạng, tạo thuận lợi cho sự lựa
chọn của người tiêu dùng và đặt các doanh nghiệp trước áp lực cạnh tranh ngày
càng gay gắt. Vì thế, việc nâng cao chất lượng sản phẩm hàm ý phải thỏa mãn cao
nhất những yêu cầu đòi hỏi từ phía khách hàng. Theo quan niệm của khách hàng,
một sản phẩm ngân hàng có chất lượng phải đáp ứng được tốt nhất, nhiều nhất nhu
cầu mong muốn của khách hàng, đem lại cho khách hàng một tập hợp tiện ích và
lợi ích. Do vậy, khi đánh giá một sản phẩm ngân hàng có chất lượng, khách hàng
thường dựa vào các tiêu chí sau: Mức độ tham gia của khách hàng vào quá trình
cung ứng sản phẩm dịch vụ ít và đơn giản, tốc độ xử lý giao dịch nhanh, mức độ
chính xác cao, hiệu quả mang lại cho khách hàng lớn, thái độ phục vụ tốt, trình
độ công nghệ hiện đại.
Cạnh tranh bằng giá cả: Giá
cả phản ánh giá trị của sản phẩm. Giá cả có vai trò quan trọng đối với quyết
định của khách hàng. Đối với các NHTM, giá cả chính là lãi suất và mức phí áp
dụng cho các sản phẩm,dịch vụ mà NHTM cung ứng cho các khách hàng.
Cạnh tranh bằng việc đa dạng
hóa dịch vụ cung cấp: Để đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của các khách hàng,
các NHTM phải cung cấp các dịch vụ tài chính ngân hàng đa dạng, độc đáo, tạo ra
nét riêng biệt, tích cực nghiên cứu để đưa ra thị trường những sản phẩm dịch vụ
mới với tính năng và tiện ích ưu việt hơn nhằm thay thế những sản phẩm hiện có.
Nhờ đó, các NHTM có thể tạo ra và duy trì lợi thế của mình trong cạnh tranh,
đáp ứng được yêu cầu của khách hàng, giữ khách hàng cũ và thu hút thêm khách
hàng mới.
Cạnh tranh bằng hệ thống phân
phối: Tổ chức hoạt động tiêu thụ sản phẩm là khâu cuối cùng của quá trình kinh
doanh. Tổ chức tiêu thụ sản phẩm là hình thức cạnh tranh phi giá cả gây được sự
chú ý và thu hút khách hàng. Kênh phân phối là phương tiện trực tiếp đưa sản
phẩm, dịch vụ của ngân hàng đến với khách hàng, đồng thời giúp ngân hàng nắm
bắt chính xác và kịp thời nhu cầu của khách hàng, qua đó chủ động cải tiến,
hoàn thiện sản phẩm, dịch vụ, tạo điều kiện thuận lợi trong việc cung cấp sản
phẩm dịch vụ cho khách hàng. Trước đây, các NHTM thường phát triển mạnh mẽ mạng
lưới chi nhánh để mở rộng thị phần và gây sức ép lên đối thủ cạnh tranh. Tuy
nhiên, thời gian gần đây, các kênh phân phối hiện đại với ưu thế về nhiều mặt
đang dần trở thành xu hướng chung được lựa chọn. Bao gồm:
+ Các chi nhánh tự động hóa
hoàn toàn: Đặc điểm của kênh phân phối này là hoàn toàn do máy móc thực hiện
dưới sự điều khiển của các thiết bị điện tử.
+ Chi nhánh ít nhân viên:
Kiểu chi nhánh này có vị trí quan trọng trong hệ thống ngân hàng, nhất là đối
với các chi nhánh lưu động. Ưu điểm của nó là chi phí thấp, hoạt động linh hoạt.
+ Ngân hàng điện tử
(E_Banking): Hình thức phân phối này được thực hiện thông qua đường điện thoại
hoặc máy vi tính. Nó cung cấp cho khách hàng rất nhiều tiện ích, tiết kiệm chi
phí và thời gian, hoạt động được ở mọi lúc, mọi nơi. Các giao dịch được thực
hiện thông qua các giao dịch điện tử bao gồm: Máy thanh toán tại điểm bán hàng,
máy rút tiền tự động (ATM), ngân hàng qua điện thoại (Tel_Banking)...
+ Ngân hàng qua mạng: Gồm 2
loại: Ngân hàng qua mạng nội bộ và Ngân hàng qua mạng Internet.
Nâng cao năng lực cạnh tranh
của các NHTM trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế là một tất yếu khách
quan, xuất phát từ các lý do sau:
Thứ nhất, hội nhập kinh tế
quốc tế trở thành một xu thế thời đại và diễn ra mạnh mẽ trên nhiều lĩnh vực.
Theo đó, song song với việc vươn ra thị trường thế giới, Việt Nam cũng phải
mở cửa thị trường trong nước, trong đó có lĩnh vực tài chính - ngân hàng. Trong
bối cảnh chung đó, các NHTM Việt Nam phải chủ động nhận thức và sẵn sàng tham
gia vào quá trình hội nhập và cạnh tranh vì khi đó thị trường trong nước không
còn mức bảo hộ cao như trước, các ngân hàng sẽ phải cạnh tranh trên phạm vi
toàn cầu và cạnh tranh ngay tại sân nhà.
Thứ hai, sản xuất hàng hóa
càng phát triển, hàng hóa bán ra càng nhiều, số lượng người cung cấp càng đông.
Muốn tồn tại và phát triển thì buộc các doanh nghiệp phải cạnh tranh với nhau.
Kết quả là một số doanh nghiệp bị thua cuộc và bị gạt ra khỏi thị trường, trong
khi một số khác vẫn tồn tại và phát triển hơn nữa. Cạnh tranh diễn ra mọi lúc,
mọi nơi không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của riêng ai nên cạnh tranh trở
thành một quy luật quan trọng thúc đẩy sự phát triển. Mọi doanh nghiệp, không
phân biệt thành phần kinh tế, đều phải tự mình vận động để đứng được trong cơ
chế này. Doanh nghiệp nào không thích nghi được sẽ cầm chắc sự phá sản và bị
đào thải. sẵn sàng chấp nhận cạnh tranh và không ngừng nâng cao năng lực cạnh
tranh là một vấn đề sống còn đối với mọi doanh nghiệp hoạt động kinh doanh. Đặc
biệt trong giai đoạn hội nhập hiện nay, doanh nghiệp chỉ có thể phát triển được
khi năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được nâng cao.
Thứ ba, thực tế cho thấy,
không một ngân hàng nào có khả năng thỏa mãn đầy đủ tất cả những yêu cầu của
khách hàng. Thường thì một ngân hàng có lợi thế về mặt này và hạn chế về mặt khác.
Các ngân hàng phải nhận biết được điều này để tăng cường khả năng cạnh tranh
thông qua việc phát huy tốt những điểm mạnh mà mình đang có để đáp ứng tốt nhất
những đòi hỏi của khách hàng. Có như vậy các ngân hàng mới có thể giữ vững và
phát triển được thị phần, lợi nhuận trong điều kiện mở cửa thị trường, có sự
tham gia ngày càng nhiều của các ngân hàng trong nước và nước ngoài.
Thứ tư, một thực trạng phổ biến hiện nay là năng
lực cạnh tranh của các NHTM Việt Nam còn nhiều hạn chế và yếu kém
nên khả năng tồn tại và khẳng định vị thế trên thị trường (đặc biệt là thị
trường quốc tế) chưa cao.
Từ những phân tích trên, cùng
với tầm quan trọng và đặc điểm của ngành ngân hàng trong tiến trình phát triển
kinh tế quốc dân, để có thể tận dụng tối đa các cơ hội, hạn chế thách thức,
việc nâng cao năng lực cạnh tranh của các NHTM hiện nay là vấn đề tất yếu khách
quan.
Hội nhập trong lĩnh vực ngân
hàng đồng nghĩa với việc từng bước thực hiện tự do hóa và mở rộng thị trường
ngân hàng theo các cam kết quốc tế. Điều này đã và đang tạo ra cho các NHTM
Việt Nam
những cơ hội để phát triển nhưng cũng đặt ra không ít những thách thức khó khăn
phải vượt qua.
Cơ hội
Thứ nhất, việc mở cửa và hội
nhập trong lĩnh vực ngân hàng ngoài việc cho phép các NHTM trong và ngoài nước
được hoạt động kinh doanh, cạnh tranh và lớn mạnh trong một sân chơi công bằng
và bình đẳng hơn còn tạo điều kiện thuận lợi cho các NHTM trong nước thâm nhập
thị trường quốc tế và mở rộng hoạt động kinh doanh. Hội nhập còn đem lại cho
ngành ngân hàng Việt Nam những cơ hội trao đổi, hợp tác quốc tế trong lĩnh vực
hoạch định chính sách tài chính, tiền tệ, quản lý ngoại hối, thanh tra, giám
sát phòng ngừa rủi ro và thanh toán, từ đó nâng cao vị thế và uy tín của các
NHTM Việt Nam trong các giao dịch tài chính ngân hàng quốc tế, điều vốn là hạn
chế của các NHTM Việt Nam hiện nay.
Thứ hai, sự tham gia thị
trường của các NHTM nước ngoài không chỉ làm gia tăng mức độ cạnh tranh mà còn
gia tăng sự lành mạnh và an toàn của toàn bộ hệ thống NHTM. Mặt khác, thông qua
hội nhập, các NHTM Việt Nam có cơ hội tiếp cận với vốn, công nghệ, kinh nghiệm
và trình độ quản lý của các NHTM phát triển trên thế giới. Bên cạnh đó, để nâng
cao chất lượng hoạt động kinh doanh và theo kịp yêu cầu phát triển của thị
trường trong và ngoài nước, các NHTM trong nước phải chủ động thực hiện cơ cấu
lại tổ chức theo hướng hợp lý và chuyên nghiệp hơn, tăng năng lực tài chính,
thực hiện chuyên môn hóa sâu hơn các nghiệp vụ ngân hàng, nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn, đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ. Đó là những điều kiện quan
trọng để các NHTM Việt Nam
hoạt động kinh doanh hiệu quả và đứng vững trong cạnh tranh.
Thứ ba, hội nhập sẽ tạo ra
động lực thúc đẩy công cuộc đổi mới và nâng cao tính minh bạch, tính tự chịu
trách nhiệm của hệ thống NHTM Việt Nam để đáp ứng yêu cầu của hội nhập và thực
hiện các cam kết, qua đó nâng cao hiệu quả điều hành trong lĩnh vực tiền tệ,
ngân hàng.
Thứ tư, hội nhập sẽ giúp các
NHTM Việt Nam có cơ hội tiếp cận và phát triển đa dạng các dịch vụ và tiện ích
ngân hàng mới hiện đại, mở rộng hoạt động kinh doanh đồng thời không ngừng nâng
cao chất lượng phục vụ khách hàng để cạnh tranh tốt hơn. Đổi mới sẽ tạo ra động
lực cho sự phát triển trong hoạt động kinh doanh của các NHTM Việt Nam.
Thứ năm, việc hội nhập cũng
đòi hỏi môi trường pháp lý phải được cải thiện hơn để thực hiện các cam kết
quốc tế, tạo môi trường đầu tư hấp dẫn, khuyến khích các luồng vốn chảy vào
trong nước thông qua đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp nước ngoài, tạo cơ
hội để các NHTM cho vay và huy động vốn lớn hơn.
Thách thức
Mặc dù trong thời gian qua,
hệ thống NHTM đã có những bước phát triển nhất định song khoảng cách giữa các
NHTM trong nước và NHTM trong khu vực và trên thế giới vẫn còn rất lớn về mọi
phương diện. Vì vậy, khi hội nhập, hệ thống NHTM Việt Nam cũng gặp
phải những thách thức và sức ép không nhỏ.
Thứ nhất, các NHTM Việt Nam
hiện nay có tiềm lực tài chính nhỏ bé, chất lượng tài sản thấp, danh mục sản
phẩm dịch vụ còn nghèo nàn, chất lượng sản phẩm dịch vụ chưa cao, cơ cấu tổ
chức chưa thực sự hợp lý và chưa chuyên nghiệp, trình độ quản lý điều hành còn
thấp, công nghệ ngân hàng còn có khoảng cách đáng kể so với trình độ của khu
vực và thế giới. Các NHTM Việt Nam
hiện nay chỉ có lợi thế về mạng lưới chi nhánh phân phối sản phẩm dịch vụ và khách
hàng rộng rãi, am hiểu về tập quán địa phương và môi trường kinh doanh. Tuy
nhiên, đây không phải là những lợi thế lâu dài, mang tính quyết định và sẽ mất
dần đi khi lĩnh vực ngân hàng thực sự tự do hóa hoàn toàn.
Thứ hai, hội nhập sẽ mang lại
sự cạnh tranh gay gắt và khốc liệt trên thị trường ngân hàng Việt Nam. Các NHTM
nước ngoài hiện chỉ nắm giữ thị phần thiểu số trên thị trường tài chính ngân
hàng Việt Nam nhưng sẽ có ưu thế gần như toàn diện trong tương lai khi mà các
quy định hạn chế của Nhà nước Việt Nam đối với các NHTM và TCTD nước ngoài được
nới lỏng dần để thực hiện cam kết mở cửa thị trường trong lĩnh vực ngân hàng.
Thứ ba, hội nhập kinh tế quốc
tế làm tăng các giao dịch vốn và rủi ro của hệ thống ngân hàng, trong khi cơ
chế quản lý chưa hoàn thiện, nhất là cơ chế thanh tra, giám sát, thiếu sự phối
hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa các bộ ngành liên quan sẽ là một thách thức không
nhỏ đối với các NHTM Việt Nam. Nếu như năng lực quản lý và lập pháp không theo
kịp và không lường trước được sự phát triển nhanh chóng của các giao dịch tài
chính - ngân hàng, sẽ có 2 khả năng xảy ra: Hoặc là ngành ngân hàng mất khả
năng kiểm soát dẫn tới khủng hoảng hoặc quốc gia sẽ tái áp dụng các hạn chế để
duy trì kiểm soát. Cả 2 trường hợp này đều có hại cho sự phát triển của ngành
ngân hàng.
Thứ tư, hội nhập đòi hỏi các
NHTM Việt Nam phải có một nguồn nhân lực không chỉ có chuyên môn cao về nghiệp
vụ ngân hàng mà còn phải am hiểu Luật thương mại quốc tế và được trang bị đầy
đủ những kiến thức và kỹ năng nghiên cứu, phân tích, đánh giá và dự báo theo mô
hình và chuẩn mực quốc tế, trong khi nguồn nhân lực của các NHTM Việt Nam còn
rất yếu kém về các kiến thức và kỹ năng trên. Đây là một khó khăn lớn cho các
NHTM Việt Nam.
Thứ năm, khả năng kiểm soát
tiền tệ còn nhiều hạn chế của NHNN Việt Nam
trong điều kiện mở cửa thị trường tài chính ngân hàng cũng rất dễ gây ra những
rủi ro hệ thống cho các NHTM Việt Nam. Để tránh được rủi ro này, công
tác thanh tra, giám sát vĩ mô và giám sát từ xa của NHNN đòi hỏi phải có năng
lực lớn và dựa trên tiêu chuẩn thanh tra, giám sát quốc tế, điều mà NHNN Việt
Nam chưa có được.
Như vậy, quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế sẽ tạo ra sức ép ngày càng lớn hơn cho hoạt động kinh doanh của
các NHTM Việt Nam
trong khi lợi thế tiềm tàng sẽ thuộc về các NHTM nước ngoài. Sự cạnh tranh
không chỉ diễn ra ở nước ngoài mà còn diễn ra ngay tại thị trường trong nước,
nơi mà NHTM Việt Nam
vẫn có nhiều ưu thế nếu biết tận dụng những ưu thế đó. Để có thể nắm vững ưu
thế, tận dụng cơ hội và tăng khả năng cạnh tranh, các NHTM Việt Nam cần phải
biết vị trí của mình, phải đánh giá được năng lực cạnh tranh của mình dựa trên
các chỉ tiêu đã đề cập, từ đó có những biện pháp cải thiện năng lực nội tại để
nâng cao khả năng cạnh tranh của chính mình./.
Th.S Phạm Thái Hà