Để nhanh chóng thoát khỏi tình trạng suy
giảm và sớm lấy lại đà phục hồi, việc tái cấu trúc nền kinh tế Việt Nam (phân
bổ, sắp xếp lại nguồn lực, chọn hướng đi tốt nhất) được đặt ra như một yêu cầu
cấp thiết. Tái cấu trúc DN nói chung và đặc biệt là DNNN nói riêng là một cấu
phần quan trọng trong tái cấu trúc nền kinh tế. CPH - biện pháp chủ đạo để tái cấu trúc các DNNN chính thức được
khởi động từ năm 1992. CPH DNNN là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước - một giải pháp quan trọng nhằm nâng cao hiệu
quả hoạt động của các DNNN, thu hút tiềm năng toàn xã hội góp phần vào sự phát
triển của kinh tế - xã hội đất nước. Kết quả bước đầu của tiến trình này đã góp
phần tạo ra động lực mới cho sản xuất, kinh doanh trong sự phát triển của nền
kinh tế - xã hội. Chuyển đổi hình thức sở hữu DNNN sẽ giúp khắc phục
được tình trạng “cha chung không ai khóc”, góp phần nâng cao hiệu quả quản trị
DN, tạo động lực mới thúc đẩy DN phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động của
DN.
Tính đến nay, thực tiễn 17 năm
thực hiện CPH DNNN đã khẳng định những kết quả tích cực của nó. Theo
kết quả khảo sát, trên 90% các DNNN sau CPH đều kinh doanh có lãi. Hiệu quả
quản lý và năng lực kinh doanh được cải thiện rõ rệt, thu nhập và đời sống cán
bộ công nhân viên từng bước được nâng lên. CPH đã thu hút một số lượng lớn các
nhà đầu tư (cả pháp nhân và cá nhân, cả trong và ngoài nước) tham gia góp vốn
vào các DNNN được CPH, thu về một lượng lớn tiền thặng dư phát hành cho Nhà
nước, đồng thời cũng thúc đẩy các DN này ngày càng hoạt động thực chất hơn,
hiệu quả hơn và minh bạch hơn … Ngoài ra, CPH cũng góp phần vào việc hình thành
các DN có quy mô lớn, đa ngành, đa lĩnh vực và đặc biệt là góp phần quan trọng
vào việc đổi mới tư duy kinh tế, hài hòa được lợi ích của Nhà nước - DN và
người lao động.
Số lượng các DNNN được sắp xếp đến 2008 và kế hoạch
2009-2010
|
1992-2006
|
2007
|
2008
|
2009-2010
|
Số DNNN đã/cần phải sắp xếp
|
5.024
|
271
|
119
|
1.090
|
Trong đó, số CPH
|
3.646
|
116
|
74
|
760
|
Nguồn: Bộ Tài
chính
Thế nhưng, do những khó khăn khách quan lẫn chủ quan,
quá trình CPH DNNN đang bộc lộ những hạn chế và bất cập từ mục tiêu đến tổ chức
thực hiện.
* Thứ nhất, quy mô CPH vẫn còn nhỏ, tốc độ vẫn còn
chậm. Số lượng DNNN được CPH là khá
lớn nhưng trong gần 4000 DNNN đã CPH, chỉ có gần 40% DN có quy mô vốn trên 5 tỷ
đồng, còn lại phần lớn là các DN nhỏ và vừa. Mặc dù trong vài ba năm gần đây,
một số DNNN có quy mô vốn lớn được CPH (như Bảo Việt, Đạm Phú Mỹ, Vietcombank,
Sabeco, Habeco…) nhưng tính đến nay cũng chỉ mới có khoảng 25-30% tổng vốn nhà
nước được CPH. Và tại các DNNN đã CPH thì lượng vốn do Nhà nước nắm giữ vẫn
chiếm tỷ lệ khá cao.
Tiến trình CPH ở hầu hết các lĩnh vực then chốt, những
tổng công ty “đỉnh” vẫn khá ì ạch. Kế hoạch CPH của nhiều công ty, tổng công ty
lớn liên tiếp bị trì hoãn từ năm này qua năm khác với nhiều lý do khác nhau.
Đặc biệt, trong 2 năm 2007-2008, kế hoạch CPH các DNNN chỉ thực hiện được 30 -
35% mà một trong các lý do chính là sự sụt giảm mạnh của thị trường chứng
khoán.
*Thứ hai, một số DN sau CPH vẫn nằm trong tình trạng
“bình mới rượu cũ”, nghĩa là ít có sự thay đổi về cơ cấu và cơ chế quản lý,
năng lực điều hành,... và đương nhiên là hiệu quả kinh doanh cũng
không được cải thiện. Vẫn có tới gần 10% DN hậu CPH tiếp tục nằm trong tình
trạng thua lỗ. Do tỷ lệ sở hữu của các cổ đông nhỏ lẻ (cá nhân, cán bộ công
nhân viên ...) tại DN quá nhỏ nên họ hầu như không có thực quyền nào trong việc
kiểm soát phần vốn của mình cũng như thực thi đầy đủ các quyền cơ bản của cổ
đông. Một số công ty cổ phần nhiều năm không tiến hành đại hội cổ đông, không
công khai báo cáo tài chính... hoặc tổ chức đại hội cổ đông, thực hiện công
khai báo cáo tài chính chậm hơn so với quy định. Vì vậy, sau khi CPH, Nhà nước
vẫn nắm giữ quyền quản lý DN và những “vết xe cũ” tiếp tục được lặp lại. Vậy là
CPH chỉ có ý nghĩa thay đổi một phần sở hữu vốn mà chưa tạo ra sự biến đổi mạnh
mẽ về chất trong quản trị, điều hành.
* Thứ ba, còn nhiều bất cập trong
cơ chế trước, trong và sau CPH.
Trong các quy định về chuyển DNNN thành công ty cổ phần còn
một số nội dung chưa phù hợp. Cơ chế xác định giá trị DN, đặc biệt là xác định
giá trị quyền sử dụng đất còn bỏ ngỏ nhiều vấn đề. Việc quy định giá bán cho
đối tác chiến lược không thấp hơn giá đấu giá bình quân khi IPO cũng là một bất
cập. Quy định bán ưu đãi cho cán bộ công nhân viên còn nhiều điểm bất hợp lý
...
Kể từ ngày 1/7/2010, tất cả các DN 100% vốn nhà nước sẽ chuyển sang hoạt
động theo Luật DN (dưới hình thức công ty cổ phần hoặc công ty trách
nhiệm hữu hạn). Đây là một trong những nội dung quan trọng trong Chỉ thị
854/CT-TTg ngày 19/6/2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc triển khai thực hiện
kết luận của Bộ Chính trị trong việc thí điểm mô hình tập đoàn kinh tế nhà
nước... Nội dung Chỉ thị số 854/CT
- TTg thể hiện quyết tâm của Chính phủ trong quá trình sắp xếp, đổi mới, phát
triển và nâng cao hiệu quả DNNN theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ
X và cũng là một thách thức lớn cho các cơ quan liên quan và DN trong quá trình
thực hiện "cải cách DN" nói chung. Số lượng các DN cần phải sắp xếp
chuyển đổi là rất lớn, vào khoảng 1.500, đặc biệt trong đó có khoảng 90 công ty
mẹ là tập đoàn, tổng công ty nhà nước với thời gian chuyển đổi tính từ ngày Chỉ
thị được ban hành là khoảng 01 năm.
Nguyễn Thu Thủy
Bộ Tài chính