Ông bình luận thế nào về
tính thời điểm của việc tăng giá điện lần này trong bối cảnh chỉ số giá tiêu
dùng tháng 2 khá cao, gần 2%?
Thực ra, bất kỳ khi nào điều chỉnh
tăng giá, thì các cơ quan chức năng đều tính toán đến tính thời điểm của nó. Từ
thực tiễn chúng tôi rút ra là không có thời điểm nào là hoàn toàn có lợi, và cũng
không có thời điểm nào là hoàn toàn bất lợi. Vấn đề là chúng ta chọn thời điểm
thuận lợi nhất, còn bất lợi thì cần có biện pháp kiểm soát.
Điểm không thuận của quyết định điều
chỉnh tăng giá điện từ tháng 3, đó là ngay sau Tết Nguyên Đán, giá cả đang ở mức
cao, đã tác động đến thị trường, tạo tâm lý lo lắng trong dư luận là giá cả
hàng hóa tiếp tục tăng. Đây là điều đã được tính đến và Chính phủ đã có biện
pháp kiểm soát giá.
Thế nhưng, có nhiều tác động tích cực
khi xét về tính thời điểm. Thứ nhất, tháng 3, sau khi nghỉ Tết xong, các DN bước
vào chu kỳ sản xuất mới. Điều này giúp DN chủ động tính toán được chi phí sản
xuất kinh doanh ngay từ đầu năm, thích hợp với giá điện mới. Thứ hai là tạo sức
ép, buộc các DN phải đổi mới quản lý, tiết kiệm chi phí, sắp xếp sử dụng
nguyên, nhiên vật liệu để tiết kiệm điện, thực hiện có hiệu quả các định mức
kinh tế kỹ thuật, giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành. Yếu tố thuận lợi thứ ba
là DN tính toán được giá thành và giá bán sản phẩm để thỏa thuận với khách hàng
ngay từ đầu năm, tránh rủi ro do không điều chỉnh được giá bán của mình trong
trường hợp tăng giá đầu vào ở trong năm hoặc giữa năm.
Thưa ông, tính toán tác động sau tăng
giá than cho điện, và tăng giá điện cho nền kinh tế, thì mức độ tác động đến nền
kinh tế ra sao, vì có nhiều lo ngại thái quá CPI sẽ tăng mạnh?
Trước tiên cần lưu ý là Chính phủ chỉ
tăng giá than bán cho điện. Như vậy giá than tăng đã nằm trong giá điện tăng,
không phải tăng giá than cho toàn xã hội. Còn giá điện tăng 6,8% sẽ tác động đến
3 lĩnh vực sau. Thứ nhất là đối với sản xuất, làm tăng giá thành của một số sản
phẩm từ 0,09% đến 2,28%, tùy loai. Ví dụ chúng tôi tính toán, giá thành xi măng
tăng 0,97%, nước sạch từ 1,63 đến 2,28%, thép tăng 0,09%. Đối với đời sống, thì
23,8% tổng số hộ sử dụng điện ở các vùng do công ty phân phối điện địa phương
trực tiếp bán điện, và trên 50% số hộ ở những vùng nông thôn mà mua điện từ các
tổ chức kinh doanh điện nông thôn, nếu sử dụng dưới 50kwh/tháng, không phải trả
thêm tiền. Những hộ sử dụng từ 51kwh đến 100kwh, thì áp dụng theo giá không
tính lãi của ngành điện, chi phí tăng thêm 7.000 đồng/tháng. Những hộ sử dụng đến
200kwh, thì trả thêm 16.000 đồng/tháng.
Việc điều chỉnh tăng giá điện 6,8%, nếu
tính trực tiếp vòng 1 tác động của điện vào chỉ số giá tiêu dùng CPI tăng thêm
0,16%. Nếu tác động vòng 2, lan tỏa vào các ngành sử dụng điện, CPI có thể tăng
gấp đôi lên 0,32%. Các tác động này đã được tính toán rất kỹ.
Liệu tác động đến CPI chỉ dừng lại ở
vòng 2 không thôi thưa ông?
Thông thường chỉ tác động vòng 1 và
vòng 2 đến nền kinh tế. Tuy nhiên, thực thế còn có một tác động nữa khó lượng
hóa là tác động tâm lý. Và có thể cả có yếu tố lợi dụng, giá điện tăng thì lợi
dụng tăng giá hàng hóa của mình.
Một số doanh nghiệp có tính toán cho
thấy cần tăng giá lớn. Ví dụ ngành thép cho rằng phải tăng giá thép bán ra từ 5
đến 10%. Trong khi đó như ông vừa nói thì chi phí ngành thép chỉ tăng khoảng
0,09%. Sự chênh lệch lớn này có thể báo hiệu nguy cơ về sự tăng giá bất hợp lý?
Tôi cho rằng phạm vi, mức động tác động
khi điều chỉnh tăng giá điện phải có số liệu cụ thể. Bộ Công thương và Bộ Tài
chính đều nắm được lượng điện tiêu thụ của nền kinh tế, định mức tiêu thụ điện
trong sản phẩm của từng ngành là bao nhiêu. Do đó con số mà chúng tôi tính toán
khó có thể khác như những con số đưa ra. Còn đương nhiên điều chỉnh tăng lên sẽ
làm giảm lợi nhuận của DN. Bộ sẽ có kiểm tra công tác đăng ký, kê khai giá đối
với các loại hàng hóa bắt buộc. Bộ cũng sẽ nỗ lực tối đa để giảm tác động của
giá.
Lần nào tăng giá hàng hóa thiết yếu cũng
nói quản lý giá. Nhưng nhiều loại hàng hóa vẫn tăng. Vai trò của Bộ Tài chính
dường như chưa được thể hiện rõ?
Chúng ta đang thực hiện nhất quán cơ
chế giá thị trường có sự kiểm soát của Nhà nước, và nó khác cơ chế trước đây là
Nhà nước trực tiếp định giá. Cơ chế mới này thị trường định giá. Hiểu vắn tắt
là người mua, người bán thỏa thuận nhau trên cơ sở cung cầu, dịch vụ. Nhà nước
áp dụng cả biện pháp vĩ mô và vi mô để tác động vào mặt bằng gía, chứ không trực
tiếp định giá.
Về biện pháp vĩ mô, Nhà nước luôn chủ
trương biện pháp vĩ mô tập trung hỗ trợ sản xuất kinh doanh, tạo môi trường đầu
tư thuận lợi, thúc đẩy sản xuất phát triển, để có nhiều hàng, không để thiếu
hàng. Nếu bất kỳ ở địa điểm nào, loại hàng hóa nào cung nhỏ hơn cầu thì giá sẽ
tăng.
Thứ hai là chủ động linh hoạt sử dụng
các công cụ của chính sách tiền tệ, để kiểm soát tổng phương tiện thanh toán, tốc
độ tăng trưởng tín dụng để giảm thiểu tốc độ tăng giá. Trước đây chúng ta đã tổng
kết là tiền ra thì giá lên, nếu giá lên, mà không khống chế tổng phương tiện
thanh toán thì tiền ra thì giá lại lên, tạo vòng xoáy luẩn quẩn. Đây là bài học
kinh nghiệm chúng ta đã có. Cho nên phải kiểm soát tiền tệ, chi tiêu công, gồm
cả chi thường xuyên, chi đầu tư và tiết giảm bội chi ngân sách. Tiếp đó là điều
hành hợp lý xuất nhập khẩu. Ví dụ chúng ta kiểm soát tiến độ xuất khẩu gạo,
không thể xảy ra như tháng 4/2009, đẩy giá trong nước lên cao.
Bên cạnh đó là giải pháp vi mô, trong
đó kiểm soát các mặt hàng thuộc danh mục phải đăng ký, kê khai giá, niêm yết
giá và bán hàng theo giá niêm yết, gắn liền với kiểm tra giá. Tất cả làm đồng bộ,
đặc biệt kiểm tra giá phải làm thường xuyên ở các địa phương. Địa phương nào kiểm
soát tốt thị trường, hệ thống phân phối, thì giảm nhiều những bất thường về
giá, hạn chế tăng giá tự phát.
Trong cơ chế giá mới, chúng ta đã
thích ứng và tiếp tục thích ứng để có những ứng xử phù hợp. Giá tăng hợp lý thì
người tiêu dùng cũng chia sẻ. Nhưng tăng bất hợp lý thì phải kiểm tra xử
lý.
Thực
tế đang có những bất cập trong việc bán lẻ một số loại hàng hóa thiết yếu. Ví dụ
giá điện, nước ở khu nhà trọ đang tăng bất hợp lý. Bộ sẽ triển khai các biện
pháp cụ thể ra sao để tránh những tình trạng tương tự như vậy?
Thời gian qua tôi đã đi kiểm tra việc bán nước sạch, điện ở các địa
phương, thì các địa phương đã có thống nhất là phối hợp nhiều ngành với nhau.
Nhưng các địa phương đều cho rằng các ngành như điện, nước phải làm tốt công
tác khảo sát việc ký kết hợp đồng cho người tiêu thụ, với điều khoản chặt chẽ,
trong đó có cả hướng dẫn giá bán, nếu vi phạm thì ngừng cung cấp dịch vụ. Một số
tỉnh như Vũng Tàu, Đồng bằng SCL đang làm rất tốt.
Nhưng các cơ quan vẫn phải phối hợp với
ngành điện, nước, các ngành kinh doanh khác, để có biện pháp xử lý. Bộ Tài
chính cũng chỉ đạo các Sở ngành dọc, cùng các ngành điện, nước, phối hợp làm tốt
công tác hợp đồng ngay từ ban đầu với các hộ sử dụng. Đồng thời kiểm tra việc
bán giá điện, nước đúng giá theo quy định, trong điều kiện giá cả thị trường biến
động, góp phần bình ổn giá chung.
Điện sản xuất được điều chỉnh tăng
6,3%, và tiếp tục được thực hiện chính sách giá điện theo giờ, nhưng giá điện
giờ cao điểm sẽ tăng thấp hơn so với giá giờ thấp điểm. Giá bán điện bình quân
cho sinh hoạt tăng bằng mức tăng chung là 6,8%. Đối với các cơ quan hành chính,
sự nghiệp giá bán lẻ tăng 6,3%, còn đối với kinh doanh, giá bán lẻ tăng 6,1%.
Riêng
với điện sinh hoạt, biểu giá bán lẻ vẫn tiếp tục thực hiện theo nguyên tắc trước
đây. Cụ thể là mức giá cho 50kwh đầu tiên vẫn được giữ nguyên 600 đồng/kwh như
năm 2009. Mức tiếp theo từ 51 đến 100 kwh, được giữ ở mức tương đương giá thành
bình quân của ngành điện, không có lợi nhuận. Mức giá của các bậc thang tiếp theo
được điều chỉnh cao hơn để bù chéo cho các mức bậc thang thấp, đảm bảo giá điện
sinh hoạt bình quân là 6,8%.
Vũ Dũng