DIỄN ĐÀN ĐỐI THOẠI
NHỮNG GÓC NHÌN ĐA CHIỀU
Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2009 được coi là một cuộc “Đại Suy thoái” - một năm mà kinh tế thế giới phải chịu đựng sự sụt giảm sâu nhất kể từ Thế chiến thứ hai.

Cuộc khủng hoảng đã làm cho các nền kinh tế chủ chốt của thế giới suy thoái từ 2% đến 5%, đã làm hàng trăm ngân hàng các loại phá sản, kể cả các ngân hàng lớn có lịch sử lâu đời như Lehman Brothers (Mỹ). Số người thất nghiệp tính trên phạm vi thế giới đã tới khoảng 50 triệu người. Những tổn thất do cuộc khủng hoảng này gây ra đã tới ngàn tỷ USD và những hệ quả của nó còn có thể kéo dài trong nhiều năm tới. Tuy nhiên vẫn phải nói rằng, Chính phủ các nước đã can thiệp kịp thời bằng nhiều biện pháp tích cực khiến nền kinh tế toàn cầu trở nên khả quan hơn. Nhưng mức độ hồi phục ở các khu vực là không đồng đều. Một số khu vực đã "hồi sinh" trở lại, nhưng những khu vực khác vẫn đang tiếp tục phải "vật lộn" với khủng hoảng. Chính vì thế, khi dự báo về tình hình kinh tế thế giới năm 2010 có nhiều ý kiến trái chiều được đưa ra. Những dự báo dưới đây sẽ cung cấp thêm cho bạn một góc nhìn về kinh tế thế giới năm 2010.

 Kinh tế thế giới sẽ tăng trưởng khả quan

Từ cuối năm 2009, nhiều tổ chức tài chính và các chuyên gia kinh tế hàng đầu thế giới đã đưa ra những nhận định rất khả quan về triển vọng kinh tế toàn cầu năm 2010. Hãng Reuters (Anh) sau khi thăm dò ý kiến của 150 chuyên gia kinh tế hàng đầu đã đưa ra nhận định năm 2010 kinh tế thế giới sẽ tăng trưởng khả quan. Theo đó, nhờ 5.000 tỷ USD dành cho các chương trình tín dụng và tiêu dùng đặc biệt, các nền kinh tế lớn đang lấy lại đà tăng trưởng và năm 2010 tiếp tục ghi nhận những tín hiệu tích cực.

Trên thực tế, nền kinh tế Hoa Kỳ, khu vực đồng Euro, Anh, Nhật Bản đều đã tăng trưởng trong quý IV/2009. Dù năm 2009 rất khó khăn bởi suy thoái kinh tế trầm trọng nhưng theo giới phân tích, hậu quả của khủng hoảng không quá nặng nề như những dự đoán được đưa ra trước đó. Chính vì thế, những tín hiệu vui dịp cuối năm 2009 sẽ trở thành tiền đề tốt cho năm 2010. Hiện, kinh tế Hoa Kỳ được phục hồi nhờ sự tiếp sức của thị trường lao động dần ổn định và sự gia tăng đôi chút trong lĩnh vực sản xuất. Kinh tế Hoa Kỳ đã tăng trưởng 2,2% trong quý III/2009. Ngoài ra, theo thông tin từ Chính phủ nước này, mới đây, tỷ lệ nộp đơn xin trợ cấp thất nghiệp đã giảm xuống mức thấp nhất kể từ tháng 9/2008.

Với khu vực EU, hầu hết các nước đã bắt đầu tăng trưởng từ quý III/2009. Kinh tế Nga đã tăng trưởng tốt trong quý IV/2009 và dự đoán năm 2010 sẽ đạt mức tăng trưởng khoảng 3 - 5%. Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) cũng dự đoán các nền kinh tế đang phát triển trong khu vực sẽ đạt mức tăng trưởng khoảng 6,6% năm 2010; Trung Quốc sẽ tăng trưởng 8,9%, Ấn Độ 7%.

Cùng ý kiến với nhận định trên, Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) cho rằng kinh tế thế giới năm 2010 sẽ tăng trưởng 3,1% , cao hơn mức dự báo 2,5% đưa ra hồi tháng 7. Theo IMF, kinh tế Trung Quốc sẽ tăng trưởng 9% trong năm tới, trong khi Ấn Độ là 6,4%, Nhật Bản 1,7%; Mỹ 1,5% và 0,3% cho khu vực sử dụng đồng Euro. Từ những con số trên cho thấy, các nền kinh tế mới nổi ở khu vực châu Á sẽ là đầu tàu kéo kinh tế thế giới ra khỏi giai đoạn suy thoái tồi tệ nhất thời hậu Chiến tranh Thế giới thứ 2. IMF nhận định:“Nền kinh tế toàn cầu dường như đã tăng trưởng trở lại dưới sức kéo của các hoạt động kinh tế mạnh mẽ diễn ra ở châu Á, sự bình ổn trở lại hoặc phục hồi khiêm tốn ở các khu vực khác”.

Nhưng vẫn còn khó khăn

Ngoài những đánh giá lạc quan, giới phân tích cũng cho rằng năm 2010 kinh tế thế giới sẽ còn đối mặt với không ít khó khăn, đặc biệt là tỷ lệ thất nghiệp và nợ ngân sách của nhiều nước vẫn ở mức cao. Cuộc suy thoái toàn cầu đã để lại những hậu quả nặng nề, tác động trực tiếp đến tình hình sản xuất và tăng trưởng của các quốc gia. Trong đó, vấn nạn thất nghiệp là một trong những thách thức lớn nhất. Năm 2009, tỷ lệ thất nghiệp ở Hoa Kỳ đạt con số kỷ lục: 10%, cao nhất trong vòng 26 năm qua. Ngoài ra, tỷ lệ thất nghiệp điều chỉnh theo mùa trong tháng 10/2009 của khu vực EU cũng lên tới 9,8%.

Ủy ban châu Âu dự đoán năm 2010, tỷ lệ thất nghiệp của khối sẽ lên 10%. Tình trạng này ảnh hưởng tới các nguồn tài chính vốn eo hẹp của chính phủ khiến các nước phải can thiệp nếu thế giới tiếp tục xảy ra suy thoái. Thêm vào đó, nợ nần chồng chất cũng khiến các nhà kinh tế và giới đầu tư lo lắng. Ông Guillaume Guichard, chuyên gia kinh tế người Pháp nhận định, nợ ngân sách, đặc biệt là khoản nợ của các nước phát triển, sẽ lên đến đỉnh điểm vào năm 2010. Nợ trung bình của các nước thuộc Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế chiếm 73,1% GDP vào năm 2007 và sẽ tăng lên 100% vào năm 2011. Tổng số nợ của khu vực đồng Euro dự tính đạt 1.000 tỷ EUR vào năm 2010.

Với các nước G20 khác, tình hình cũng không sáng sủa hơn. Theo dự báo của các chuyên gia, mức nợ của Nhật Bản sẽ tăng từ 167% lên 204% GDP; Pháp từ 70% lên 99% GDP; Đức từ 65% lên 85,5% GDP. Còn theo đánh giá của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), năm 2010, nợ của các nước nhóm G7 sẽ tăng và xu thế này có thể duy trì tới năm 2014.

            Còn theo đánh giá mới nhất cuả hãng đánh giá tín dụng Moody's thì kinh tế toàn cầu sẽ không thể phục hồi mạnh mẽ trong năm 2010 và 2011 với tình trạng thất nghiệp và thâm hụt ngân sách vẫn dai dẳng. Giám đốc Global Sovereign Risk Group của Moody's, Pierre Cailleteau, cho hay tại hầu hết các nền kinh tế tiên tiến, đà phục hồi này trở nên khá mong manh do vấp phải vô số trở ngại, đặc biệt là tại những nước có dính dáng đến những rủi ro do ngân hàng trung ương nước ngoài thay đổi chính sách tỷ giá hối đoái để giảm hoặc làm mất giá trị hoàn toàn các hợp đồng ngoại hối trong năm 2010.

            Moody's cũng nêu lên ba rủi ro đối với dự báo phục hồi kinh tế theo “hình móc câu”, tức là rơi vào suy thoái sâu trước khi trải qua giai đoạn phục hồi chậm một cách khó nhọc. Rủi ro đầu tiên là chính phủ và ngân hàng trung ương các nước rút lại các gói kích thích kinh tế một cách thiếu trật tự, dẫn đến sự gia tăng đột biến về lãi suất trong dài hạn cũng như sự điều chỉnh mạnh mẽ về tỷ giá hối đoái. Rủi ro thứ hai là các tổ chức tài chính không thể gây dựng lại vốn với tốc độ đủ nhanh để đối phó với các mối đe dọa kinh tế và tài chính. Rủi ro thứ ba và cũng là rủi ro ít khả năng xảy ra nhất là sự sụt giảm về tốc độ tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc.

            Moody's dự báo kinh tế Trung Quốc sẽ tăng trưởng 8,5-9,5% trong cả năm 2010 và 2011; kinh tế Anh tăng trưởng lần lượt 1-2% và 2-3% và kinh tế Mỹ tăng trưởng theo thứ tự 2-3% và 2,5-3,5% trong cùng thời gian này.

            Với đại diện của WTO, Tổng giám đốc WTO, ông Pascal Lamy trong một tuyên bố mới đây cho rằng đà phục hồi của kinh tế toàn cầu năm 2010 không thể được đảm bảo bởi việc chính phủ chi tiêu quá nhiều tiền vào lĩnh vực tài chính toàn cầu đã tạo ra rất nhiều bong bóng. Ông Pascal Lamy cũng chỉ ra một số nền kinh tế mới nổi đang phát triển nhanh như Trung Quốc, Brazin, Ấn Độ và Nam Phi vốn năng động hơn và được quản lý chặt chẽ hơn, ít vay nợ sẽ chịu ít ảnh hưởng tiêu cực từ khủng hoảng kinh tế và ở phương diện nào đó trong thời suy thoái kinh tế cho thấy sự quản lý kinh tế tốt hơn so với các nước phương Tây.

             Alfred Marshall, nhà kinh tế học Anh thời nữ hoàng Victoria lại đưa ta một nhận xét chí lý về khủng hoảng: “Cơn bão thương mại thường để lại trên đường đi sự tàn phá. Khi bão tan, thế giới lại yên tĩnh nhưng là sự yên tĩnh nặng nề và mờ mịt”.

Đó là những nhận định cho các nền kinh tế, còn đối với “cuộc sống” của một số lĩnh vực: Thương mại thế giới; giá cả thị trường; thị trường chứng khoán; thị trường tiền tệ... theo báo cáo của Bộ Tài chính, kinh tế thế giới năm 2010 sẽ được hình dung qua lăng kính khá lạc quan. về Thương mại thế giới. Với sự phục hồi của tăng trưởng kinh tế, thương mại thế giới cũng sẽ sôi động hơn hơn. IMF dự báo thương mại thế giới sẽ tăng 2,5% (năm 2009 giảm 11,9%). Tuy nhiên, cầu tiêu dùng vẫn còn yếu do thu nhập tăng chậm và thất nghiệp vẫn còn cao. Những sản phẩm tiêu dùng phổ thông và cần thiết hàng ngày sẽ tăng nhanh hơn những sản phẩm cao cấp.

Giá cả thị trường cũng có nhiều biến động. Giá dầu thô sẽ tăng cao hơn năm 2009 và sẽ giao động trong khoảng 70 – 90 USD/thùng. Giá dầu tăng là do nhu cầu cho sản xuất và tiêu dùng tăng. Ngoài ra, việc đồng đô la Mỹ mất giá, các nước sản xuất dầu mỏ hạn chế khai thác cũng sẽ là những yếu tố đẩy giá dầu lên cao. Giá vàng, nếu như các nước vẫn tiếp tục thực hiện các gói kích thích kinh tế lớn, nhất là Mỹ thì khả năng vàng thế giới sẽ tiếp tục tăng. Ngoài ra, do nguồn cung hạn chế, trong khi đó nhiều nước không muốn nắm giữ đồng đô la Mỹ do lo ngại đồng tiền này mất giá và chuyển sang dự trữ vàng là những nguyên nhân làm cho giá vàng tăng. Giá các loại nguyên liệu, vật tư khác cũng sẽ có xu hướng tăng so với năm 2009 do nhu cầu tăng từ sự phục hồi của kinh tế thế giới và mất giá của tiền tệ.

Việc nền kinh tế đầu tầu của thế giới (Mỹ) công bố những tin tức triển vọng về khả năng phục hồi kinh tế, còn Trung Quốc cũng đã công bố mức tăng trưởng kinh tế khá cao là những thông tin rất quan trọng đối với hoạt động của TTCK thế giới. Và việc TTCK phản ứng tích cực với những thông tin này đã được thể hiện rõ nét trong diễn biến giao dịch và chỉ số giá chứng khoán trong 10 tháng qua. Do vậy dự báo, năm 2010, TTCK sẽ có xu hướng ổn định hơn do những thông tin khả quan từ phục hồi kinh tế thế giới.

Đối với thị trường tiền tệ thế giới, dự báo đồng USD chắc chắn sẽ mở rộng biên độ giảm so với Euro và hầu hết các đồng tiền chính trong 6 tháng tới. Đôla Canada dự kiến sẽ ngang giá với USD trong 3 tháng tới. Đôla Ôxtrâylia sẽ đạt mức cao 95 Uscent trong 3 tháng tới. USD giảm xuống còn mức 1,0211 đôla Canada so với 1,0236 đôla Canada, mức thấp nhất kể từ tháng 7/2008.

G7 đang nới lỏng chính sách tiền tệ đã đẩy các mức lãi suất cơ bản xuống mức thấp kỷ lục. Cụ thể, mức lãi suất cơ bản của Cục dự trữ liên bang Mỹ đưa ra hiện nay là từ 0-0,25%, Ngân hàng trung ương châu Âu (ECB) là 1%, Ngân hàng trung ương Anh là 0,5%. Lãi suất cho vay qua đêm của Ngân hàng trung ương Canađa hiện cũng chỉ ở mức  thấp kỷ lục là 0,25%, Ngân hàng Trung ương Nhật là 0,1%. Dự báo, trong thời gian tới lãi suất cơ bản của các ngân hàng trung ương sẽ có xu hướng tăng lên. Trên thực tế, Ngân hàng Dự trữ Úc đã tiến hành tăng lãi suất mục tiêu 25 điểm cơ bản đưa mức lãi suất lên 3,25% vào tháng 6/10/2009 vừa qua. ECB dự kiến có thể sẽ là ngân hàng tiếp theo tiến hành điều chỉnh lãi suất dựa trên mức tăng trưởng tiền tệ của khu vực này. Ở Mỹ, Nhật Bản, Anh và Canađa, các mức lãi suất công bố có thể cũng sẽ có những điều chỉnh. 

Dự đoán vẫn chỉ là dự đoán, một năm mới lại đến, cùng với những niềm hy vọng và những biến cố chưa biết trước được. Tất nhiên các quốc gia có quyền hy vọng vào một tương lai tươi sáng hơn trong năm 2010. Và theo chuyên gia kinh tế Guillaume “Để vượt qua khủng hoảng, bí quyết có vẻ cổ điển để lấy lại đà tăng trưởng ổn định là phát huy nội lực, tận dụng ngoại lực và có những quyết sách đúng đắn”.                                                                             Vân Hà                                   
TIN MỚI CẬP NHẬT
LIÊN KẾT WEBSITE
TẠP CHÍ IN
  • Tổng mục lục năm 2021
  • Tổng mục lục năm 2020
  • Tạp chí số 146 (Tháng 12/2019)